này trước hết là giết Phan Thanh Giản và Trần Tiến Thành, sau đó đem
nghĩa binh đi trấn áp các làng đạo.
Những năm 1873 - 1874, trong khi nhân dân Bắc Kỳ khắp nơi nổi
dậy chống thực dân Pháp mạnh mẽ và giành được nhiều thắng lợi đáng kể,
đặc biệt là trận thắng ở Cầu Giấy lần thứ nhất đã làm nức lòng nhân dân cả
nước thì triều đình lại vội vàng ký Hiệp ước Giáp Tuất thừa nhận chủ
quyền của Pháp ở Nam Kỳ
58
. Rõ ràng, triều đình "chỉ muốn hòa bình, dù là
hòa bình nào, hòng tránh một cuộc cách mạng nhân dân có thể quét sạch uy
quyền của họ ở Bắc Kỳ. Giữa sự mất đặc quyền của mình và sự mất độc lập
của dân tộc, Tự Đức đã lựa chọn từ lâu: ông muốn hy sinh cái thứ nhì để
bảo tồn cái thứ nhất. Chính vì lý do đó mà ông đã không dám thúc đẩy một
cuộc nổi dậy thực sự của nhân dân miền Nam, cũng chính vì lý do đó mà,
lần này, ông vội vàng lo thương thuyết với người Pháp, thay vì thử kêu gọi
lòng yêu nước của dân"
59
.
b) Thời kỳ 1873 - 1884
Từ sau Hiệp ước Giáp Tuất, tư tưởng xuyên suốt của triều Nguyễn
vẫn là hòa hoãn để tìm cách thương lượng với thực dân Pháp. Trước năm
1862, những người chủ hòa trong triều đình cho rằng ta yếu, địch mạnh nên
hòa với Pháp để có thời gian xây dựng đất nước và tăng cường tiềm lực
kháng chiến. Nhưng Nguyễn Tri Phương đã hoài nghi về khả năng này khó
có thể thành công khi nói với Vua Tự Đức rằng: "Thanh Giản, Duy Thiệp
bảo việc hòa nghị đã xong, có thể ngồi mà trông thấy giàu mạnh. Tôi cho
rằng sau khi đã hòa rồi tài lực ngày càng hết, làm sao giàu mạnh được"
60
.
Bên cạnh chủ trương hòa nghị là tư tưởng cầu viện Thiên triều Mãn
Thanh. Khi biết thực dân Pháp âm mưu đưa quân đánh chiếm Bắc Kỳ lần
thứ hai, triều Nguyễn đã cử người sang Trung Quốc cầu viện quân sự. Sau
khi Hà Nội thất thủ, nhà Thanh đã điều động một phần quân đội ở Lưỡng
Quảng và Vân Nam sang đóng khắp biên giới Việt Trung và áp sát Hà Nội.
Dân chúng Bắc Kỳ lo ngại việc quân Thanh nhân cơ hội này sẽ chiếm Bắc
Kỳ thì Vua Tự Đức quở trách: "Người nước Thanh đâu có làm điều bất