người Kinh đến các chiến sĩ người Tày, người Năng, người Mẫu,
người Mường, người Dao... Tùy theo điều kiện địa lý, kinh tế và dân
cư cụ thể, có nơi thì tổ chức ra đơn vị vũ trang gồm những người
thuộc các tầng lớp hoặc các thành phần dân tộc khác nhau; có nơi thì
tổ chức ra đơn vị vũ trang chỉ gồm những người thuộc riêng một tầng
lớp, một đơn vị kinh tế, một địa vực (như đội tự vệ công nhân một nhà
máy, đội tự vệ nông dân một làng xã, đội tự vệ thanh niên một đường
phố, đội tự vệ của đồng bào dân tộc một tổng, một xã nào đấy).
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi cho thấy sự
kết hợp giữa bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích,
giữa chiến tranh chính quy và chiến tranh du kích là ưu thế nổi bật của
chiến tranh nhân dân để động viên toàn dân đánh giặc, phát huy được
sức mạnh của chiến tranh chính nghĩa. Trên cơ sở động viên toàn dân,
lần đầu tiên Đảng đã tiến hành thắng lợi một cuộc chiến tranh nhân
dân lâu dài chống chiến tranh xâm lược, xây dựng thành công một lực
lượng vũ trang gồm ba thứ quân ngày càng mạnh, phát huy sức mạnh
của một nước nhỏ để đánh thắng một đế quốc to có quân đội nhà nghề,
số lượng đông, trang bị vũ khí hiện đại.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, dân tộc Việt
Nam phải đương đầu với một đế quốc xâm lược đầu sỏ, có tiềm lực
lớn về kinh tế và quân sự, có lực lượng vật chất và kỹ thuật hùng
mạnh, có nhiều vũ khí và phương tiện hiện đại. Trong điều kiện đó,
vai trò của lực lượng dân quân tự vệ hết sức quan trọng và vô cùng
cần thiết.
Trong khi miền Bắc có điều kiện hòa bình để xây dựng chủ
nghĩa xã hội, thì ở miền Nam, chiến tranh vẫn chưa chấm dứt. Đế
quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn tăng cường trấn áp phong trào cách
mạng của nhân dân Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ miền
Nam, từ đấu tranh vũ trang thời kỳ kháng chiến chống Pháp, nhân dân
Việt Nam chuyển sang đấu tranh chính trị, yêu cầu địch thi hành Hiệp