định Giơnevơ, chống địch đàn áp, khủng bố. Đứng trước hành động
phát xít của địch, cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân miền Nam
ngày càng đòi hỏi bức thiết phải có lực lượng vũ trang tự vệ.
Xuất phát từ tình hình cụ thể của cách mạng miền Nam, tháng 6
năm 1956, Bộ Chính trị chỉ rõ: “Hình thức đấu tranh của ta trong toàn quốc
hiện nay là đấu tranh chính trị, không phải đấu tranh vũ trang”
47
; nhưng
“như thế không có nghĩa là tuyệt đối không dùng vũ trang tự vệ trong
những hoàn cảnh nhất định”
48
. Đến những năm 1956 - 1958, ở nhiều địa
phương miền Nam lần lượt xuất hiện các đơn vị vũ trang tự vệ của quần
chúng cách mạng. Trước tình hình đó. Bộ Chính trị nhắc nhở phải “củng cố
các lực lượng vũ trang và bán vũ trang hiện có và xây dựng căn cứ làm chỗ
dựa”
49
.
Phương châm xây dựng lực lượng vũ trang được Đảng xác định là
phải từ việc “xây dựng cơ sở quần chúng vững mạnh làm điều kiện căn bản
để duy trì và phát triển lực lượng vũ trang”
50
, và nhấn mạnh vấn đề hết sức
quan trọng hiện nay là phải tranh thủ xây dựng lực lượng cách mạng, tiến
tới thành lập Mặt trận đoàn kết dân tộc rộng rãi, từ phong trào đấu tranh
cách mạng của quần chúng, từ lực lượng chính trị phát triển mạnh mẽ mà
xây dựng và tổ chức lực lượng vũ trang, nhằm hỗ trợ cho đấu tranh chính
trị.
Khi xác định phương châm xây dựng lực lượng vũ trang cách
mạng miền Nam, Đảng ta đã nắm vững quy luật phổ biến về sự ra đời
của lực lượng vũ trang cách mạng trong các cuộc chiến tranh giải
phóng. Đó là sự phát triển từ không đến có, từ phong trào chính trị
rộng rãi của quần chúng mà hình thành, tuần tự từ nhỏ đến lớn, từ thấp
lên cao. Đồng thời, Đảng còn biết tận dụng những điều kiện thuận lợi
mới để thúc đẩy quy luật đó vận động nhanh chóng bằng những bước
phát triển nhảy vọt. Đồng bào ở miền Nam vốn có truyền thống chống
giặc ngoại xâm rất kiên cường, được rèn luyện và có kinh nghiệm đấu
tranh vũ trang của Cách mạng Tháng Tám và kháng chiến chống