chiến tranh thì mới bảo toàn và phát triển lực lượng chính trị và lực
lượng vũ trang để từng bước mở rộng lực lượng, thay đổi cục diện
chiến trường, cuối cùng chiến thắng kẻ thù lớn mạnh.
Trong công tác xây dựng căn cứ địa, hậu phương ở nông thôn,
Đảng Cộng sản Việt Nam luôn xác định đúng vị trí và tác dụng của cả
nông thôn rừng núi và nông thôn đồng bằng. Nông thôn rừng núi có
địa thế hiểm yếu, là địa bàn chiến lược quan trọng về quân sự. Ở đây,
nhân dân các dân tộc rất trung thành với cách mạng, cũng chính là nơi
địch yếu và sơ hở, trên địa bàn đó có thể hạn chế chỗ mạnh của địch.
Dựa vào địa thế, quân đội và nhân dân có thể tích lũy và phát triển lực
lượng, có thể kiên trì chiến đấu lâu dài ngay trong những trường hợp
khó khăn nhất và lấy đó làm bàn đạp vững chắc phát triển xuống đồng
bằng. Thực tiễn trong Cách mạng Tháng Tám, trong kháng chiến
chống thực dân Pháp cũng như trong kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước đã chứng minh nông thôn rừng núi là căn cứ địa vững chắc nhất
của cách mạng và chiến tranh cách mạng ở Việt Nam.
Nông thôn đồng bằng tuy địa thế không hiểm trở như ở vùng
rừng núi, nhưng lại là những nơi có khả năng cung cấp nhân lực, vật
lực, có mạng lưới giao thông phát triển và là nơi tiếp giáp với thành
thị, do đó là một địa bàn chiến lược quan trọng. Bởi vậy, đi đôi với
việc xây dựng và củng cố căn cứ địa, hậu phương ở các vùng rừng núi,
Đảng Cộng sản Việt Nam hết sức coi trọng xây dựng và củng cố căn
cứ địa, hậu phương ở vùng đồng bằng. Chiến tranh của ta là chiến
tranh nhân dân, dựa vào sức mình là chính, nên việc tranh thủ và dựa
vào nhân dân các vùng đồng bằng để xây dựng căn cứ địa có ý nghĩa
chiến lược cực kỳ quan trọng. Có như vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam
mới động viên được đông đảo nhân dân tham gia khởi nghĩa và chiến
tranh, mới đẩy mạnh được chiến tranh du kích ở khắp nơi, kể cả vùng
xung yếu gần các thành thị và các đường giao thông quan trọng, mới
giải quyết được nguồn nhân lực, vật lực dồi dào để đáp ứng kịp thời
những nhu cầu ngày càng lớn của chiến tranh. Chỉ có như vậy, quân và