Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, miền Bắc xã hội chủ
nghĩa là hậu phương lớn của tiền tuyến miền Nam, do đó xây dựng hậu
phương miền Bắc vững mạnh là một vấn đề chiến lược quyết định thắng lợi
của cách mạng cả nước. Khi cả nước có chiến tranh, miền Bắc vừa là căn
cứ địa cách mạng của cả nước, vừa là hậu phương lớn cho cuộc kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước, lại vừa là tiền tuyến trực tiếp chiến đấu ác liệt
chống máy bay và tàu chiến Mỹ. Tại miền Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam
chủ trương đánh địch trên cả ba vùng chiến lược, nhưng việc xây dựng căn
cứ địa vẫn chủ yếu dựa vào vùng nông thôn, cả ở rừng núi và đồng bằng.
Việc xây dựng căn cứ địa - vùng giải phóng trên các chiến trường được tiến
hành từng bước, với quy mô và hình thức thích hợp tùy thuộc vào so sánh
lực lượng giữa ta và địch, trên từng vùng, địa bàn. Chủ trương của Đảng là
kết hợp xây dựng cơ sở chính trị ở khắp nơi, xây dựng căn cứ địa, hậu
phương tại chỗ ở các vùng giải phóng, trước hết là vùng núi, nơi hiểm yếu
như ở Tây Nguyên, sau đó phát triển đến các vùng nông thôn đồng bằng. Ở
vùng rừng núi, ở các căn cứ (chiến khu) từ thời kháng chiến chống thực dân
Pháp, ta có điều kiện mở rộng và phát triển thành vùng giải phóng trên các
địa bàn chiến lược quan trọng như miền Đông Nam Bộ...
Ở vùng nông thôn đồng bằng đông dân, nhiều của, Đảng chủ trương
xây dựng và phát triển căn cứ địa gắn liền với việc không ngừng mở rộng
ra vùng tranh chấp giữa ta và địch, đấu tranh chính trị đi đôi với đấu tranh
vũ trang, bảo vệ nhân dân, bảo vệ sản xuất; tạo và mở rộng nguồn động
viên nhân lực, vật lực phục vụ kháng chiến, đi đôi với hạn chế, phá kế
hoạch khai thác nhân lực, vật lực của địch. Căn cứ địa được xây dựng vững
chắc ở đồng bằng sông Cửu Long, có những căn cứ nằm sát trục đường
giao thông quan trọng.
Ở sâu trong các vùng địch kiểm soát chặt chẽ, có những “căn
cứ lõm" là nơi đứng chân của cơ quan lãnh đạo, chỉ huy, của cơ sở hậu
cần. Chẳng hạn như "căn cứ lõm" Đá Mặn nằm sát sân bay Nước Mặn
ở Quảng Nam - Đà Nẵng của lính thủy đánh bộ Mỹ. Các "căn cứ lõm"