tốn xương máu, mà vẫn bảo tồn được tông miếu xã tắc"
9
. Ông đã cử
người sang trại quân Tống, buộc Quách Quỳ phải chấp nhận giải pháp
"cầu hòa" một hình thức đầu hàng không điều kiện, vừa có thể bảo vệ
mạng sống cho bao binh lính, giữ thể diện cho "thiên triều”, vừa có thể
tạo điều kiện cho sự hòa hiếu dài lâu với nhà Tống. Thời Trần, sau
kháng chiến chống Mông - Nguyên thắng lợi, những người lãnh đạo
Đại Việt cũng đã duy trì ngoại giao với nhà Nguyên, thả tù binh, cấp
thuyền và lương ăn cho về nước. Đặc biệt, trong cuộc chiến tranh giải
phóng đầu thế kỷ XV, khi quân Minh đã "chí cùng lực kiệt", phương
sách viện binh cũng đã bị đánh tan, Lê Lợi và Nguyễn Trãi đã chấp
nhận sự đầu hàng của nhà Minh bằng cách tổ chức Hội thề Đông Quan
và cấp ngựa, cấp thuyền, lương thảo cho bọn Vương Thông và 10 vạn
tù binh về nước. Tư tưởng kết thúc chiến tranh đó vừa chứng tỏ tính
nhân đạo của ta, vừathể hiện một kế sách quốc phòng lâu dài của các
nhà lãnh đạo cuộc chiến; đúng như Nguyễn Trãi đã viết trong Bình
Ngô đại cáo rằng: “Nghĩ vì kế lâu dài của nước nhà, Tha kẻ hàng
mười vạn sĩ binh, Sửa hòa hiếu cho hai nước, Tắt muôn đời chiến
tranh"
11
.
Vua Quang Trung tại Tam Điệp, trước khi ra lệnh mở cuộc tiến
công đánh tan quân Thanh giải phóng Thăng Long, đã nghĩ việc đặt
quan hệ ngoại giao với nhà Thanh để có hòa bình xây dựng thế nước.
Trước ba quân, ông nói: "Lần này ta ra thân hành cầm quân, phương
lược tiến đánh đã có tính sẵn. Chẳng qua mười ngày có thể đuổi được
người Thanh. Nhưng nghĩ chúng là nước lớn gấp mười nước mình,
sau khi bị thua một trận, ắt lấy làm thẹn mà lo mưu báo thù. Như thế
thì việc binh đao không bao giờ dứt, không phải là phúc cho dân, nỡ
nào mà làm như vậy. Đến lúc ấy chỉ có người khéo lời lẽ mới dẹp nổi
việc này, không phải là Ngô Thì Nhậm thì không ai làm được. Chờ
mười năm nữa, cho ta yên ổn mà nuôi dưỡng lực lượng, bấy giờ nước
giàu quân mạnh, thì ta có sợ gì chúng?"
11
.