vua là người trực tiếp cầm quân. Việc xây dựng được quân đội hùng
mạnh, quân đội do nhà nước quản lý theo một hệ thống nhất quán, vua
trực tiếp thống lĩnh điều hành quân đội là một bước phát triển mới
trong tư tưởng xây dựng quân đội của quốc gia Đại Việt thời Lê Sơ.
Thời Tây Sơn, để phù hợp với cách tác chiến (nhanh, mạnh,
thần tốc), kể từ khi trở thành Bắc Bình vương, Nguyễn Huệ quyết định
phiên chế quân đội thành hệ thống: đội, cơ, đạo và doanh. Doanh là
đơn vị đảm nhiệm tác chiến trên một hướng tiến công và thường do
một đô đốc hoặc đại đô đốc chỉ huy. Trong những trường hợp cần
thiết, Nguyễn Huệ còn tổ chức ra đơn vị có quy mô lớn hơn gọi là đại
quân gồm 2 đến 3 doanh do một đại đô đốc thống lĩnh. Để tạo ra sức
mạnh tổng hợp, đồng thời với việc phát triển lực lượng bộ binh,
Nguyễn Huệ còn chú trọng đến việc phát triển các thành phần lực
lượng khác như tượng binh, kỵ binh, pháo binh (đại bác thần công) và
thủy binh. Chủ trương phát triển tượng binh và đại bác thần công, xem
như hai "binh chủng" trong cơ cấu lực lượng quân đội là điểm mới
trong xây dựng lực lượng vũ trang thời Tây Sơn. Trong thực tế, tượng
binh là một thành phần đặc trưng. Khi hành quân, voi là phương tiện
cơ động, chuyên chở lực lượng, vũ khí và trang bị nặng. Lúc tác chiến,
trên lưng mỗi voi chiến đều bố trí hỏa hổ hoặc đại bác thần cơ; do đó,
quân Tây Sơn vượt trội về sức mạnh đột kích mà quân Trịnh, quân
Nguyễn và cả quân xâm lược nhà Thanh đều không có. Đại bác thần
công của quân đội Tây Sơn cũng là bước tiến so với quân đội các triều
đại trước đó. Lực lượng này có số lượng lớn đại bác các cỡ tính năng
và sức công phá của đạn đại bác Tây Sơn không thua kém đạn đại bác
các nước, thậm chí cả Tây Âu. Đại bác thường được bố từ cơ động
bằng thuyền lớn hoặc đặt trên lưng tượng binh làm tăng khả năng cơ
động, góp phần quan trọng tiêu diệt sinh lực địch, giành thắng lợi
trong chiến đấu.
Tiếp thu truyền thống quân sự dân tộc và tinh hoa quân sự thế giới,
Đảng Cộng sản Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã giải quyết