thống nhất biên chế, thống nhất khẩu lệnh tăng cường công tác chính trị,
định rõ chiến khu, lập thêm trường quân chính.
Với tư tưởng chỉ đạo đó, trong những năm kháng chiến chống
thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí
Minh hết sức chăm lo xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân (bộ
đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích) làm nòng cốt cho
toàn dân đánh giặc. Đối với lực lượng dân quân tự vệ, Đảng và Chủ
tịch Hồ Chí Minh đánh giá cao, coi đó là bức tường sắt, vô luận kẻ thù
nào đụng vào cũng thất bại. Do đó, tháng 3-1947, Đảng chủ trương
thống nhất về tổ chức lực lượng dân quân du kích, xây dựng lực lượng
này thành một bộ phận đông đảo của lực lượng vũ trang nhân dân, đặt
dưới sự chỉ huy trực tiếp của cấp xã đội, huyện đội, tỉnh đội với quy
mô phổ biến là tiểu đội, trung đội, đại đội; vừa sản xuất, vừa chiến đấu
ngay tại địa phương bằng các thứ vũ khí có trong tay với hình thức tác
chiến linh hoạt, sáng tạo. Để hoàn chỉnh dần cơ cấu tổ chức lực lượng
vũ trang, ngày 1-4-1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh thành lập
bộ đội địa phương. Từ đây, lực lượng vũ trang của nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa đã có đầy đủ ba thứ quân: Bộ đội chủ lực, bộ đội
địa phương, và dân quân... Thực hiện Sắc lệnh đó, bộ đội địa phương
bắt đầu được thành lập với quy mô đại đội hoặc tiểu đoàn, được cấp
ủy đảng lãnh đạo, cơ quan quân sự địa phương chỉ huy; có khả năng
tác chiến độc lập, làm nòng cốt phát triển chiến tranh nhân dân địa
phương. Cùng với việc xây dựng lực lượng dân quân tự vệ, bộ đội địa
phương, Đảng Cộng sản Việt Nam rất chú trọng tới việc xây dựng các
đơn vị chủ lực và chuẩn bị các điều kiện tiến tới xây dựng các đơn vị
cơ động cấp đại đoàn.
Theo phương hướng đó, trong những năm 1949-1952, các đại
đoàn bộ binh chủ lực (Đại đoàn 308, 304, 312, 316, 320, 325) và Đại
đoàn công pháo 351 lần lượt được thành lập. Đến giai đoạn kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước, thực hiện chủ trương của Đảng, quân
chủng (Hải quân, Phòng không - Không quân), binh chủng (Thông tin,