mục đích chiến đấu để quân sĩ thông hiểu lẽ phải; từ đó nâng cao ý chí
quyết chiến, quyết thắng giặc ngoại xâm. Trần Quốc Tuấn giáo dục
tướng sĩ noi gương các "trung thần nghĩa sĩ" trong lịch sử để xả thân
vì xã tắc. Lê Lợi và Nguyễn Trãi giáo dục nghĩa quân tinh thần đồng
cam cộng khổ, ý chí quyết tâm
"dám bỏ mình báo nước"
. Quang
Trung động viên tướng sĩ noi gương các vị anh hùng dân tộc, quyết
tâm đánh giặc giữ nước với ý chí "đánh là thắng".
Đồng thời, với việc chăm lo giáo dục tướng sĩ, các triều đại Lý,
Trần, Lê Sơ cũng hết sức coi trọng và tiến hành thường xuyên việc
huấn luyện quân sự, coi đó là một yếu tố cơ bản tạo nên chất lượng
tinh của quân đội. Chính vì thế mà triều Lý lập Điện Giảng Võ (nơi
giảng binh pháp), lại có Xạ Đình (nơi quân đội thao diễn); triều Trần
có Giảng Võ đường là trường đào tạo võ quan cao cấp; triều Lê Sơ
xây dựng Điện Giảng Võ (1481) làm nơi đào tạo võ quan và "luyện
điểm duyệt binh"
33
. Nhằm nâng cao trình độ và bản lĩnh chiến đấu
vững vàng của quân sĩ, triều Lý, Trần, Lê Sơ đều thi hành chế độ
luyện tập quân sự thường kỳ theo những quy chế chặt chẽ.
Để giữ nghiêm quân ngũ, triều Lý, Trần, Lê Sơ và Tây Sơn đã
ban hành nhiều luật lệ và quy định về kỷ luật, thưởng phạt trong quân
đội. Đời vua Lý Thánh Tông, chỉ trong ba năm (1042, 1043, 1044) đã
ban hành ba luật, trong đó định rõ các thể lệ thưởng, phạt đối với
tướng sĩ, nặng nhất là khép vào tội đồ. Thời Trần, Lê Sơ, triều đình
cũng ban hành nhiều điều quân lệnh, quy định chế độ thưởng phạt rất
chặt chẽ và công minh theo tinh thần "việc quân có luật, phép nước
không thân".
Điểm đặc sắc trong việc xây dựng quân đội là nhiều triều đại đặc
biệt quan tâm đến đoàn kết tướng sĩ. Trần Hưng Đạo cho rằng đoàn kết
tướng sĩ là một yếu tố tạo nên sức mạnh để chiến thắng. Bởi thế, ông đã nói
điều trăn trở đó với vua Trần Anh Tông: "Làm thế nào để thu hút được binh
lính như cha con một nhà mới có thể dùng được"
34
. Đó cũng là điều mà