toàn diện đất nước, khiến cho suốt hơn 300 năm, đất nước vắng bặt bóng
quân thù xâm lược. Trong Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi viết:
"Nêu hiệu gậy làm cờ, tụ tập khắp bốn phương dân chúng.
Thết quân rượu hòa nước, dưới trên đều một bụng cha con”
9
.
Là một đội quân mà những năm đầu khởi nghĩa, số lượng,
trang bị kỹ thuật, cơ sở vật chất bảo đảm cho chiến đấu thua xa địch,
để "lấy yếu chống mạnh", "lấy ít địch nhiều”, cần phải thấy rõ thế
mạnh của bản thân, thế yếu của đối phương. Sức mạnh của nghĩa quân
bắt đầu từ lòng yêu nước, căm thù giặc, từ sự ủng hộ của nhân dân và
tinh thần chiến đấu bền bỉ, dẻo dai của quân đội yêu nước. Vì thế, phải
dựa vào dân mà xây dựng lực lượng, phải chăm lo giáo dục, rèn luyện
phẩm chất chính trị, kỷ luật và trình độ tác chiến của nghĩa quân, trước
hết của các tướng lĩnh.
Trong điều kiện lực lượng khởi nghĩa là "tập hợp khắp bốn
phương manh lệ", Lê Lợi đã chú ý đến vấn đề kỷ luật nhằm tổ chức
lực lượng nghĩa quân thành một khối thống nhất. Đối với các tướng
lĩnh, những người trực tiếp cầm quân, tính kỷ luật càng phải được duy
trì, tăng cường mạnh mẽ. Càng gần thắng lợi, kỷ luật chiến đấu càng
phải tăng cường. Đồng thời, Lê Lợi luôn luôn coi trọng và tăng cường
mối quan hệ giữa nghĩa quân với nhân dân. Ông dặn tướng sĩ của
mình: "Dân khổ về ngược chính của giặc đã lâu rồi, phàm quân đi đến
châu huyện nào không được xâm phạm một tý gì..., dù đói quẫn cũng
không được lấy”
10
.
Do được giáo dục và rèn luyện chu đáo trong chiến đấu, họ
đoàn kết, phối hợp, hỗ trợ và nhanh chóng tiếp ứng cho nhau khi cần
thiết như "cây rừng rậm rạp, răng lược khít nhau”
11
, Giữa họ với binh
sĩ khăng khít "tình thiết như cha con, thân cùng cam khổ”. Vì vậy,
"tướng sĩ dư sức hùng hổ, sắt luyện tâm cam”
12
trong quá trình chiến
đấu. Trong những ngày gian khổ ở núi rừng Thanh Hóa, đánh trả
quyết liệt các đợt vây quét của kẻ thù, bảo toàn lực lượng, chuyển