đại đã khác, không còn là những thế lực bành trướng xâm lược phong
kiến phương Bắc nữa, mà là những cường quốc đế quốc tư bản
phương Tây, đi trước ta về phương thức sản xuất, có nền kinh tế phát
triển, có quân đội mạnh, được trang bị vũ khí, kỹ thuật quân sự tiên
tiến.
Tư tưởng quân sự Việt Nam thời kỳ này đã có bước phát triển
vượt bậc. Ở giai đoạn đầu, trong cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp lần thứ nhất (1858-1884), dưới sự lãnh đạo của triều đình phong
kiến nhà Nguyễn, quan điểm tư tưởng quân sự biểu hiện đầy đủ các
phương diện bảo thủ, lạc hậu, yếu kém... Triều đình phong kiến tỏ ra
ươn hèn, bạc nhược trước những âm mưu và thủ đoạn xâm lược của
thực dân Pháp, đã tiến hành kháng chiến thụ động, không dựa vào dân,
không có tư tưởng chiến tranh nhân dân. Các phong trào kháng Pháp
thời đó tuy diễn ra hết sức sôi nổi, nhưng rốt cuộc đều thất bại, nguyên
nhân trước hết là do tư tưởng quân sự non yếu nên giai cấp cầm quyền
không có một đường lối kháng chiến phù hợp, không động viên được
cả nước đánh giặc mà ngược lại còn tìm cách cản trở phong trào kháng
Pháp của nhân dân. Chính quyền phong kiến còn ngăn cản những quan
điểm, đề xuất tiến bộ của các tướng lĩnh yêu nước hay của những nhà
canh tân đương thời. Có thể nói rằng, khi giai cấp cầm quyền đã mất
vai trò lịch sử thì tư tưởng của họ cũng không còn đại diện cho dân tộc
nữa, và do vậy, họ không thể tập hợp được đông đảo nhân dân kháng
chiến. Đầu thế kỷ XX, tư tưởng quân sự của những nhà yêu nước theo
xu hướng dân chủ tư sản là một nhân tố mới, có ảnh hưởng nhất định
trong xã hội Việt Nam; nhưng rốt cục cũng hoàn toàn bất lực trước
nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Những quan điểm, tư tưởng quân sự giai
đoạn này mang đậm tính cải lương, ôn hòa, chủ trương bạo động, chưa
hẳn tin tưởng vào sức mạnh của quần chúng nhân dân trong nước, đi
tìm con đường ngoại viện. Chính vì vậy, những nhà yêu nước ấy cũng
không thể có được một con đường cứu nước đúng đắn.