Sơn không ngừng được bổ sung, phát triển về số lượng và chất lượng, quân
số lên đến hàng chục vạn người.
Cũng cần nói thêm, với uy tín và thiên tài quân sự của Nguyễn Huệ,
ông không chỉ thu hút được đông đảo dân chúng lao động nghèo tham gia
khởi nghĩa mà còn quy tụ được nhiều nhân sĩ, trí thức ủng hộ, tham gia,
làm cho thanh thế nghĩa quân thêm mạnh. Điển hình là trong cuộc hành
quân ra Bắc phá giặc Thanh, lúc xuất phát ở Phú Xuân (12-1888) nghĩa
quân chỉ độ vài vạn (bộ phận quan trọng ở lại bảo vệ Phú Xuân), nhưng
không đầy một tháng trên đường hành quân, nghĩa quân đã lên đến 10 vạn,
gồm đủ các thành phần: bộ binh, thủy binh, tượng binh, kỵ binh, đại bác
thần công... Thực tiễn đó chứng tỏ tài năng kiệt xuất của Hoàng đế Quang
Trung trong việc tổ chức, xây dựng lực lượng nghĩa quân. Có thực lực
mạnh và cách đánh tài giỏi, nghĩa quân Tây Sơn lần lượt đánh dẹp các tập
đoàn phong kiến chúa Nguyễn ở Đàng Trong, chúa Trịnh ở Đàng Ngoài,
đánh bại quân xâm lược Xiêm La và Mãn Thanh, để lại dấu ấn đậm nét
trong lịch sử quân sự dân tộc.
Lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc diễn ra lúc thăng, lúc trầm,
nhưng ngay cả lúc trầm, dân tộc Việt Nam vẫn không ngưng nghỉ xây dựng
lực lượng chuẩn bị cho cuộc chiến đấu mới. Trong cái nhìn biện chứng, sự
thất bại của mỗi cuộc khởi nghĩa lại chuẩn bị nền tảng cho những cuộc khởi
nghĩa lớn hơn, cũng là nền tảng thực tiễn cho sự phát triển của tư tưởng
quân sự nói chung và tư tưởng khởi nghĩa nói riêng.
Kể từ khi thực dân Pháp xâm lược nước Việt Nam (1858), nhân dân
Việt Nam liên tiếp đứng lên chống quân xâm lược nhiều cuộc khởi nghĩa đã
nổ ra. Trong các cuộc khởi nghĩa đó, những người khởi xướng khởi nghĩa
hết sức quan tâm đến việc xây dựng lực lượng nghĩa quân. Sau khi khởi
nghĩa Phan Đình Phùng bị thực dân Pháp đàn áp, đánh dấu sự kết thúc
phong trào Cần Vương (1896), thì đầu thế kỷ XX, phong trào đấu tranh
chống thực dân Pháp phát triển lên một bước mang màu sắc dân chủ tư sản.