thành phố sau. Phí tổn của những kiến trúc đó, sự xa hoa phóng túng ở triều
đình, biết bao bảo ngọc để xây Ngọc điện Khổng tước
làm cho dân
chúng chắc phải điêu đứng về thuế má. Tuy nhiên triều đại dài ba chục năm
của ông chính là thời cực thịnh, uy danh lừng lẫy của Ấn Độ, mặc dầu có
một nạn đói tàn phá Ấn Độ dữ dội chưa từng thấy. Ông vua xa xỉ và kiêu
căng đó có tài năng, tuy làm phí rất nhiều sinh mạng của dân trong các
chiến tranh với ngoại quốc, nhưng bảo vệ được cảnh thái bình trong nước
suốt một thế hệ. Đúng như một nhà cai trị Anh ở Bombay, Mounstuart
Elphinstone đã viết:
Những người trông thấy tình trạng Ấn Độ ngày nay có ý nghi ngờ các văn
sĩ của họ đã phóng đại cảnh thịnh vượng huy hoàng của Ấn thời xưa;
nhưng những châu thành bỏ hoang, những cung điện đổ nát, những thuỷ lộ
huỷ hoại, những hồ nước và đê đập mà thỉnh thoảng chúng ta gặp trong
rừng, những mặt đường hư hỏng, di tích các giếng nước, các trạm trú chân
trên những quốc lộ thời xưa, tất cả những cái đó, với những thiên kí sự của
các du khách thời xưa đủ cho chúng ta tin rằng các sử gia Ấn không thêu
dệt đâu mà chép đúng sự thực đấy.
Jehan giết hết các em để lên ngôi, nhưng ông quên không giết hết các con
trai ông, để cho một người con sau này truất ngôi ông. Năm 1657, người
con thông minh nhất của ông, Aureng-Zeb, nổi loạn trong miền Deccan,
Jehan cũng như David [vua Do Thái thời cổ] ra lệnh cho các tướng lãnh
dẹp quân phiến loạn nhưng rán đừng giết con ông. Nhưng Aureng-Zeb
thắng được hết các đạo quân triều đình, bắt sống được cha, giam vô đồn
Agra, tại đó Jehan sống thêm chín năm đau khổ, uất hận, không một lần
nào được con trai vô thăm, thui thủi với người con gái hiếu thảo Jahanara,
suốt ngày ở trong tháp Jasmine, nơi ông bị nhốt, nhìn sang lăng tẩm trắng
toát của Mumtaz, người yêu của ông, trên bờ bên kia sông Jumna.
Người con đã tàn nhẫn, bất hiếu với cha như vậy nhưng là một trong những
vị thánh của đạo Hồi và có lẽ là nhân vật siêu quần nhất trong số các đế