Ấn Độ càng tiếp xúc với thế giới bên ngoài thì tục suttee càng bớt lưu hành,
nhưng quả phụ Ấn vẫn còn phải chịu nhiều vô-năng-lực hợp pháp. Vì hôn
nhân có tính cách vĩnh cửu nên họ không thể tái giá được: như vậy làm
nhục vong linh của chồng và gây vô số sự rắc rối không sao gỡ được trong
các kiếp sau của chồng. Vì vậy luật Bà La Môn cấm họ tái giá, và nếu họ
không tuẫn tiết thì phải cạo trọc đầu, và sống thêm những dư niên chỉ để
săn sóc các con và làm việc thiện. Nhưng họ được hưởng của cải của chồng
để lại. Các tục lệ kể trên chỉ được phái phụ nữ hoàn toàn theo chính thống
giáo trong giới thượng lưu và trung lưu, nghĩa là khoảng 30% dân chúng
giữ đúng thôi; còn những người theo Hồi giáo, các người Sikh và các tập
cấp thấp hèn thì không theo. Người Ấn so sánh sự thủ tiết của đàn bà goá
với sự độc thân của các tu sĩ Ki Tô giáo: trong hai trường hợp, đàn bà Ấn
và Âu đều từ chối hôn nhân để làm việc thiện
.
IV. THÁI ĐỘ CỬ CHỈ, PHONG TỤC VÀ TÍNH TÌNH
Quả dục – Vệ sinh – Y phục – Dáng điệu bề ngoài – Sự lễ độ của người Ấn
– Thói xấu và đức tốt – Trò chơi – Hội hè – Chết.
Gần như khó tin được rằng một dân tộc có những chế độ lạ lùng đó: cưới
gả con nít, đền thờ là nơi buôn son bán phấn, bắt quả phụ phải hoả thiêu
theo chồng, lại chính là một dân tộc hoà nhã và lễ độ. Trừ một số ít
devadasi ra, tệ mãi dâm rất hiếm ở Ấn Độ, và về phương diện tính dục, thái
độ bề ngoài của người Ấn thật đàng hoàng, không chê vào đâu được. Linh
mục Dubois vốn nghiêm khắc mà cũng bảo: “Ta phải nhận rằng về lễ phép
xã giao, tất cả các giai cấp Ấn Độ, cả những giai cấp thấp nhất, cũng như
những qui tắc lễ phép, tôn trọng lẫn nhau, hơn là ở bên Âu”. Ở các nước
phương Tây, trong các câu chuyện người ta thường nói đến ái tình, người
Ấn không có thói đó. Phong tục Ấn cấm ngặt nam nữ tỏ tình thân mật với