trung thành, một vị thần, thần Rama đã đầu thai làm một ông vua, vì chúng
ta mà sống trên cõi trần”. Rất ít người Âu đọc nổi thi phẩm đó vì viết bằng
tiếng Hindi cổ rất khó hiểu; nhưng một người Âu đã làm nổi việc đó, nhận
rằng Tulsi Das quả là “thi hào bậc nhất Ấn Độ”. Đối với người Ấn thì tập
thơ đó là một thứ Thánh kinh, viết về cả thần học lẫn luân lí. Thánh Gandhi
bảo: “Tôi cho tập Ramayana của Tulsi Das là cuốn sách thành kính nhất từ
trước tới nay”.
Miền Deccan cũng có nhiều thi sĩ. Tukaram đã viết bằng tiếng Mahratte
4.600 bài thơ tôn giáo mà ngày nay người Ấn thuộc lòng cũng như
người Do Thái hoặc Ki Tô giáo thời Thượng cổ thuộc những Thánh thi của
Davis. Vợ ông mất, ông tục huyền, bà kế tính tình quạo quọ, nhờ vậy mà
ông thành một triết nhân. Ông bảo: “Vĩnh phúc đâu phải là khó kiếm, có
thể tìm thấy nó trong cái đãy vác trên vai đó”.
Từ thế kỉ thứ II, Madura thành kinh đô của văn học Tamil
; nhờ sự bảo
trợ của các vua Pandya, một Sangam (hội Tao đàn), các thi sĩ và các nhà
phê bình hội họp để điển chế ngôn ngữ, ban chức tước và phát giải thưởng
văn chương như Hàn Lâm viện Pháp vậy. Tiruvallavar, một người thợ dệt
tiện dân, theo luật cách nghiêm khắc nhất của Tamil mà viết một tập thơ tôn
giáo và triết lí – tập Kurral – trong đó ông bày tỏ học thuyết của ông về
luân lí và chính trị. Tương truyền, khi các ông hàn trong Sangam, hết thảy
đều là Bà La Môn, thấy một kẻ tiện dân làm thơ hay quá, lấy làm xấu hổ,
cùng nhau đâm đầu xuống sông một lượt; ai mà ngờ được các cụ hàn lại
anh hùng như vậy nhỉ?
Chúng tôi không theo thứ tự thời gian, bây giờ mới xét tới thi hào trữ tình
bậc nhất của Ấn Độ thời Trung cổ. Kabir cũng chỉ là một thợ dệt ở Bénarès,
nhưng được trời giao cho cái nhiệm vụ hoà giải Hồi giáo và Ấn giáo, vì
thân phụ ông là người Hồi mà thân mẫu ông là con gái một người Bà La
Môn. Mê tài hùng biện của một nhà thuyết giáo tên là Ramananda, ông
thành một tín đồ thờ Rama, coi Rama là một vị thần chung cho nhân loại,