Nhưng hỡi ơi, anh vô ý để cho trường ca đó đụng nhằm mắt cá chân em, và
thật tai hại,
Nó tan tành thành mảnh thơ ở dưới chân em đây này.
Ông vẫn tiếp tục làm thơ và khắp thế giới, trừ các nhà phê bình cố chấp,
đều thích thơ ông. Ở Ấn Độ, người ta hơi ngạc nhiên khi hay tin ông được
giải thưởng Nobel (1913); các đồng bào ông ở Bengale chỉ thấy những
khuyết điểm trong thơ ông thôi, còn các giáo sư Calcutta chê ông viết tiếng
Bengali rất tồi. Các thanh niên trong phong trào quốc gia không ưa ông vì
ông vạch những cái tệ của đời sống luân lí Ấn nhiều hơn là hô hào được tự
do về chính trị, và khi vua Anh phong tước cho ông (tòng nam tước:
baronet) thì họ cho là một sự phản bội dân tộc. Nhưng ông không được
hưởng lâu những vinh dự đó, vì do một sự hiểu lầm bi thảm, một đội quân
Anh bắn xả vào đám đông ở Amritsar (1919), ông gởi trả phó vương Ấn tất
cả những huy chương của ông cùng với một bức thư lời lẽ rất nghiêm khắc.
Từ đó ông sống cô độc cho tới khi chết (1941). Mấy năm cuối cùng, ông có
lẽ là một nhân vật kích động nhất thế giới: là nhà cải cách, ông có can đảm
mạt sát chế độ làm nền tảng cho xã hội Ấn, tức chế độ tập cấp, đả đảo tín
ngưỡng phổ thông nhất của dân tộc Ấn, tức thuyết luân hồi; là nhà ái quốc,
ông mong nước ông được tự do, độc lập nhưng có can đảm chống chủ
nghĩa bài ngoại, chê phong trào quốc gia có nhiều kẻ ích kỉ, hẹp hòi; là nhà
giáo dục, ông tuyên bố rằng chán ngấy sự hùng biện và chính trị. Ông rút
vào trong ashram của ông, nơi ẩn cư của ông ở Shantiniketan, tại đó ông
dạy cho vài thanh niên cái đạo giải phóng tinh thần. Ông đứt ruột khi bà
sớm qui tiên và khi tổ quốc ông bị mọi nỗi tủi nhục; ông thấm nhuần triết
thuyết Vedanta; vì có tinh thần thần bí, ông do dự như Chandi-Das, ca tụng
Thượng Đế mà cũng ca tụng đàn bà, nhưng nhờ hiểu biết rất rộng ông
không còn lòng tín ngưỡng của tổ tiên ông nữa; còn về lòng yêu thiên
nhiên, thì ông dùng tài thi ca thơ trẻ hoài của ông để chống với tiếng gọi
của Thần Chết.