LỊCH SỬ VĂN MINH ẤN ĐỘ - Trang 390

[15]

Những tập thơ chính của ông là Gitanjali (1913), Chitra (1914), Sở

Bưu điện (1914), Người làm vườn (1914), Giỏ trái cây (1916), Trúc đào đỏ
(1925). Muốn hiểu ông thì đọc tập Hồi kí (1917) của ông hơn là cuốn: R.
Tagore, thi sĩ và nhà soạn kịch
(Oxford, 1926) của E. Thompson.

[16]

Các thi sĩ Tennyson: tôi tạm thêm chữ “các”. Bản tiếng Anh chép là:

Tennysonian. (Goldfish).

[17]

Như những lời rất đẹp này: “Ước sao khi tôi sắp từ biệt cõi trần thì lời

nói cuối cùng của tôi như sau: những cái tôi đã được thấy thật đẹp vô
song”.

[18]

Nghĩa là giữa thế kỉ XIX. (ND).

[19]

Đảng Bảo thủ Anh không thích cải cách xã hội, muốn trả lương một

cách rẻ mạt. (ND).

[20]

Năm 1922 ở Bombay có tám mươi ba xưởng dệt vải dùng 180.000 thợ,

tiền công nhật trung bình là ba mươi xu (không rõ là xu Mĩ, xu Anh hay xu
Ấn). Trên ba mươi triệu người Ấn làm trong các kĩ nghệ, 51% là đàn bà,
4% là trẻ em dưới 14 tuổi.

[21]

Những người Ấn không ăn thịt thì khứu giác của họ hoá ra mẫn nhuệ

tới nỗi chỉ ngửi hơi ở miệng hoặc ở mình bốc ra của một người khác là
nhận ra được liền người này có ăn thịt hay không, dù đã ăn từ hai mươi bốn
giờ trước (Theo Tu viện trưởng Dubois).

[22]

Năm 1913, ở Kohat, đứa con một gia đình Ấn giàu có té xuống một hồ

nước. Chung quanh đó chỉ có mẹ đứa nhỏ và một tiện dân đi ngang qua.
Người này xin lặn xuống vớt, người mẹ từ chối: thà để con chết chớ không
chịu làm dơ hồ nước!

[23]

Năm 1915, có 15 quả phụ tái giá, năm 1925, con số đó tăng lên 2.268.

[24]

Lời đó đúng: hiện nay ở khắp thế giới chỉ có Ấn Độ, Tích Lan và Do

Thái là có nữ Thủ Tướng mà Ấn Độ và Tích Lan có trước Do Thái. (ND).

[25]

Trích trong tờ New York Times số 16 năm 1930.

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.