vua từ bỏ ngôi quí, vô rừng sống đời khổ hạnh, luyện trí tuệ, rán tìm hiểu bí
mật của vũ trụ. Sau ngàn ngày khổ hạnh, ông thấy một vị hiền triết “hiểu
biết linh hồn” bước tới, bèn hỏi: “Ông biết linh hồn ra sau không, xin ông
chỉ cho tôi”. Vị hiền triết đó khuyên: “Lựa ý muốn khác đi”. Nhưng nhà
vua vẫn nằng nặc đòi biết về linh hồn, và trong đoạn dưới đây mà chính
Schopenhauer cũng phải nhận là có giọng rất bi đát, nhà vua nói lên cái ghê
tởm của cuộc sống, nỗi sợ hải tái sinh nó lởn vởn trong tâm hồn dân tộc Ấn
Độ:
Trong cái thân thể phù du và nặc xú khí này, gồm xương, da, thịt, bắp thịt,
tuỷ, tinh dịch
, máu, dãi, nhớt, nước mắt, nước bọt, phân, nước tiểu, hơi
thối, mật, đâu là phần vui, đâu là phần ham muốn?
Trong cái cơ thể đau khổ vì ngàn ngày này: ưu tư, tham vọng, vỡ mộng, sợ
sệt, thất vọng, ghen tị, phải xa người yêu, phải gần người ghét, đói khát,
già, chết, đau ốm, buồn bã vân vân, đâu là phần vui, đâu là phần ham
muốn? Chúng ta thấy thế giới chung quanh tàn diệt như ruồi muỗi, cỏ cây,
hết thảy đều sinh rồi tử… Chúng ta thấy biển cạn, núi sụp, sao bắc đẩu di
chuyển đi trong cuộc vận hành… thấy đất chìm dưới biển… Trong kiếp
người, con người sống nhờ đất rồi lại trở về với đất thì còn gì là vui thích
và ham muốn?
Bài học đầu tiên các hiền triết trong Upanishad dạy cho môn đệ là sự bất
túc của trí tuệ. Làm sao bộ óc yếu ớt này, mới tính toán một lát đã nhức
nhối, mà đòi hiểu được cái bao la cực kì phức tạp của vũ trụ mà nó chỉ là
một phần nhỏ phù du? Không phải là trí tuệ vô ích: nó có địa vị của nó, địa
vị rất khiêm tốn thật đấy và nó giúp ích ta được rất nhiều khi nó cho ta biết
các sự vật và các mối liên quan. Nhưng trước cái vĩnh cửu, vô biên, hoặc
trước các nguyên tố của các thực thể thì nó yếu ớt, lảo đảo làm sao! Trước
các thực thể thầm lặng, nó là cái nòng cốt của thiên hình vạn trạng bề
ngoài, và từ mọi lương tâm toả ra, chúng ta cảm thấy cần có một cơ quan
cảm giác tri thức khác hoàn hảo hơn ngũ quan và lí trí của ta. “Không phải