LỊCH SỬ VĂN MINH TRUNG HOA - Trang 223


II. DÂN TỘC VÀ NGÔN NGỮ

[15]

Dân số - Bề ngoài – Y phục – Những nét đặc biệt của các cuộc đàm thoại –
Chữ viết

Yếu tố đầu tiên phải xét là số lượng: người Trung Hoa đông, đông lắm. Các
nhà học rộng thích đưa ra những ước tính, có khi liều lĩnh, đã tính rằng dân
số Trung Hoa 280 năm trước T.L. vào khoảng trên dưới 14 triệu; 200 năm
sau T.L vào khoảng 28 triệu, năm 726 vào khoảng 41, 5 triệu; năm 1644
tăng lên tới 89 triệu; năm 1743 là 150 triệu; năm 1919 là 330 triệu. Thế kỷ
XIV, một du khách Âu đếm được ở Trung Hoa “hai trăm thị trấn lớn hơn
Venise”. Để kiểm tra dân số, triều đình ra lệnh gia đình nào cũng phải ghi
tên hết thảy những người trong nhà lên một tấm bảng treo ở cửa; chúng ta
không biết được điều đó có đúng không, người ghi có thành thực không, có
thể căn cứ vào đó mà kết luận một cách chắc chắn được không. Có lẽ Trung
Hoa hiện nay [trước thế chiến thứ nhì] phải nuôi 400 triệu dân

[16]

.


Chiều cao người Trung Hoa thay đổi từng miền: ở phương Nam thấp bé, ở
phương Bắc cao lớn hơn; xét chung thì họ là dân tộc lực lưỡng nhất châu
Á. Rất bền sức, rất can đảm, chịu những đau khổ về thể chất và tinh thần,
có sức đề kháng bệnh tật phi thường, có khả năng thích ứng với mọi khí
hậu, nhờ vậy mà họ làm ăn thịnh vượng được ở gần khắp các nước trên thế
giới. Thuốc phiện và bệnh hoa liễu kinh niên không làm cho nòi giống họ
suy nhược; mà tổ chức xã hội của họ sụp đổ tuyệt nhiên không do một sự
thoái hoá nào về sinh lí hoặc tinh thần. Nét mặt của họ vào hạng thông

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.