Hoa ngữ có ngữ pháp và tự loại chứ, nhưng khác các ngôn ngữ
phương Tây. (ND).
Tức phải học chánh tả và những qui tắc ngữ pháp rất rắc rối. Nhưng họ
phải nhớ mặt chữ, cũng đủ khổ rồi. (ND).
I có thể là Y
伊 ; nghi 宜 ; nghĩa 義 ; oải (hay nuỵ) 倭 ; nhất 一 ; ích
益 v.v… mà mỗi chữ đó có nhiều nghĩa. (ND).
日 , thạch 石 … (ND).
Ku là cốc
穀 , khố 庫 … (ND).
Như chữ đán
旦 , bộ 日 thêm nét ngang để trỏ ý nghĩa (mặt trời vừa ló
khỏi chân trời), chữ
星 tinh (ngôi sao), bộ 日 thêm chữ sinh 生 trỏ cách
đọc. (ND).
Tức chữ như
如 , nhưng Từ Hải không ghi một nghĩa nào như vậy cả.
(ND).
Chữ phụ
婦 chỉ gồm đàn bà và cây chỗi, chứ làm gì có cơn dông?
(ND).
Một học giả Pháp, Margouliès, cũng ca tụng tính cách đó của chữ
Trung Hoa, nhưng chính người Trung Hoa ngày nay lại muốn dùng mẫu tự
La Tinh, vì chữ viết của họ có cái lợi kể trên thì cũng có rất nhiều bất lợi:
khó học, khó tra tự điển, khó in, đánh máy không được. (ND).