đặt chức chưởng-dinh, chưởng-cơ, cai-cơ, cai-đội coi việc binh.
Thi cử : Năm 1647, Chúa Nguyễn mở khoa thi Chính-đồ và thi hoa-
văn. Chính-đồ thì đệ nhất thi tứ-lục, đệ nhị thi thơ phú, kỳ đệ tam thi văn
sách. Những quyển đậu chia ra ba hạng : hạng thứ nhất gọi là Giám-sinh
được bổ tri-phủ, tri-huyện ; hạng nhì gọi là Sinh-đồ được bổ huấn-đạo ; hạng
thứ ba cũng gọi là Sinh-đồ được bổ Lễ-sinh hoặc nhiêu-học. Còn thi hoa-văn
cũng thi ba ngày : mỗi ngày chỉ phải làm 1 bài thơ. Ai đậu, được bổ làm việc
ở tam-ty.
Năm 1695, Chúa Nguyễn phúc-Chu mở khoa thi ở trong phủ Chúa gọi
là thi Văn-chức và thi tam ty. Văn-chức thì thi tứ-lục, thơ phú và văn-sách ;
tam ty thi về Sá-sai-ty hỏi việc binh lính, tiền-lương, từ-tụng ; về Tướng-
thần-lại-ty và Lịnh-sử ty chỉ thi một bài thơ.
Năm 1740, Vũ-vương Nguyễn phúc-Khoát định lại phép thi : đậu kỳ
đệ-nhất gọi là nhiêu-học, được miễn sai 5 năm ; đậu kỳ đệ-nhị và kỳ đệ-tam
được miễn sai chung thân, đậu kỳ đệ-tứ gọi là hương cống được bổ tri-phủ,
tri-huyện.
Việc vũ-bị : Chia quân làm 5 cơ : trung, tả, hữu, tiền, hậu cơ. Số quân
độ non ba vạn người. Năm 1631, Chúa Sãi lập ra sở đúc súng đại-bác và mở
trường bắn, tập voi, tập ngựa.
Việc thuế khoá : Điền thổ chia ra làm 3 hạng để đánh thuế. Hạng
ruộng đất xấu gọi là thu-điền, khô-thổ, chịu thuế nhẹ hơn hạng đất thường.
Công điền thì đem cấp cho dân cầy cấy để nộp thuế. Đất hoang ai khai khẩn
thành ruộng, cho là tư-điền.
Đánh thuế các mỏ : mỏ vàng ở Quảng-nam, Thuận-hoá, mỏ bạc ở
Quảng-nghĩa, mỏ sắt ở Bố-chính.
Các tầu ở Thượng-hải, Quảng-tây đến phải nộp 3.000 quan, lúc đi phải
nộp 300 quan ; tầu ở Ma-cao, Nhật-bản lại phải nộp 4.000 quan, lúc đi nộp
400 quan ; tầu ở tiêm-la (Siam), ở Lã tống lại, phải nộp 2.000 quan, lúc đi
nộp 200 quan ; tầu ở các nước phương tây lại, phải nộp 8.000 quan, lúc về