CHƯƠNG VII : CHÚA NGUYỄN SUY VONG
BÀI 23 : TRƯƠNG PHÚC-LOAN CHUYÊN QUYỀN
Lúc đầu Nguyễn Hoàng vào trấn đất Thuận-hoá, đóng đinh ở làng Ái-
tử (thuộc huyện Đăng-xương, gần tỉnh-lỵ Quảng-trị). 13 năm sau (năm
1570) Nguyễn Hoàng dời vào làng Trà-bạt ở huyện ấy, tức là Cát-dinh. Đến
năm 1626, Chúa Sãi là Nguyễn phúc-Nguyên sắp sửa chống nhau với Trịnh,
dời dinh vào làng Phúc-an (thuộc huyện Quảng-điền, tỉnh Thừa-thiên) và đổi
gọi Dinh là Phủ. Năm 1636, Chúa thượng là Nguyễn phúc-Lan lại dời phủ
vào làng Kim-long (thuộc huyện Hương-trà, Thừa-Thiên). Năm 1687, Chúa
Nguyễn là Nguyễn phúc-Trăn đem phủ về làng Phú-xuân tức đất Kinh-thành
Huế bây giờ, gọi là Chính Dinh. Chỗ phủ cũ để làm thái-tôn-miếu thờ Chúa
Hiến.
Năm 1744, Vũ-vương là Nguyễn phúc-Khoát mới xứng Vương hiệu,
đổi Phủ ra làm Điện, sửa sang phép tắc, định triều-phục, chia nước ra làm 12
Dinh, như sau đây :
1. Chính-dinh (Phú-xuân)
2. Cựu-dinh (Ái-tử)
3. Quảng-bình-dinh
4. Vũ-xá-dinh
5. Bố-chính-dinh
6. Quảng-nam-dinh
7. Phú-yên-dinh (Đất Chiêm-thành)
8. Bình-khang-dinh (Đất Chiêm-thành)
9. Bình-thuận-dinh (Đất Chiêm-thành)
10. Trấn-biên-dinh (Đất Chân-lạp)
11. Phiên-trấn-dinh (Đất Chân-lạp)
12. Long-hồ-dinh (Đất Chân-lạp)
Mỗi Dinh đặt quan trấn-thủ, quan cai-bạ, quan ký-lục coi việc cai-trị.
Phủ Quảng-nghĩa và phủ Qui-nhân, thuộc về tỉnh Quảng-nam, đặt quan