nhậm » đọc « nhiệm », « hồng » đọc « hường », « chủng » đọc « chưởng »,
« thật » đọc « thực » hoặc « thiệt » v.v… Nay cần tìm sự thực và phải chính
danh, nên đối với tên người, tên đất, xin cứ phát âm cho thật đúng, chứ
không theo lối xưa tị húy tức là trại tên. Ví dụ :
- Lý Nhân-Tông, chứ không Lý Nhân-Tôn ;
- Ngô Thì Nhậm, chứ không Ngô Thời Nhiệm…
Dẫu vậy, lệ này chỉ áp dụng vào những tiếng tên riêng cho chính cái
danh, đúng cái thực thôi. Còn các tiếng tên chung vì lâu ngày đã thông
dụng rồi, có thể cho liệt vào lệ ngoại. Vả, đó lại thuộc công việc của nhà
ngữ học, không phải lĩnh vực của nhà viết sử.
7) Các sử sách khắc in dưới triều Cựu Nguyễn, có nhiều chữ nho vì tị
húy mà phải tỉnh hoạch, tức là bớt nét, như « chiêu »
昭, bớt bỏ « nhật bên
» mà khắc là « triệu »
召, « nhậm » 任, bớt bỏ « nhân đứng bên » mà khắc
là « nhâm »
壬, « thì » 時, bớt bỏ « nhật treo bên » mà khắc là « tự » 寺… ;
có khi lại đổi hẳn cả chữ, như « Hằng »
恆, đổi là « thường » 常
…
Nay theo chung cái lệ trên, xin cứ chép cho đúng tên đúng chữ. Ví dụ :
- Lê Chiêu-thống, chứ không Lê Triệu-thống,
- Nhậm Diên, chứ không Nhâm Diên,
- Thì Nhậm, chứ không Tự Nhâm,
- Lý Hằng, chứ không Lý Thường,
- …
Ngoài ra, hễ thấy tên một nhân vật lịch sử nào đích danh là có chữ
đệm mà sử cũ vì kiêng húy, đã tự tiện bỏ đi, thì nay xin cứ theo đúng sự
thực mà trả lại chữ đệm cho tên người ấy, như : Ngô Sĩ, cứ chép là Ngô Thì
Sĩ, v.v…
8) Trong sử sách chữ Pháp có nhiều tên người, tên đất Việt-nam, hoặc
không đánh dấu hay viết trật chữ quốc ngữ, hoặc nhớ sai mà chép lầm, như
Chí-hòa chép là Kỳ-hòa
… Nay xin cố gắng kê cứu, càng sửa được đúng
chừng nào càng hay chừng ấy.