Thái-tổ đến Lê Cung-hoàng là Tiền Lê (1428-1527), còn Lê trung-hưng là
Hậu Lê (1592-1789).
Gần nay, nhiều sử sách quốc văn lại chia triều Lê thuộc họ Lê Hoàn là
Tiền Lê (980-1009), triều Lê từ Thái-tổ đến Cung-hoàng là Hậu Lê (1428-
1527), còn Lê từ Trang-tông đến Mẫn-đế là Lê trung-hưng (1592-1789).
Đó là theo lối chia của mấy sử gia Pháp.
Nay xin phân biệt thế này để nêu cái đặc trưng của mấy triều đại sau
đây :
- Lê Quang-phục, là Lê từ Thái-tổ đến Cung-hoàng.
- Lê Trung-hưng là Lê từ Trang-tông đến Mẫn-đế.
- Cựu Nguyễn, là nhà Nguyễn từ năm Nguyễn Hoàng vào trấn Thuận,
Quảng
đến năm tôn hoàng Bảo-đại thoái vị (1945).
- Tân Nguyễn là nhà Nguyễn Tây-sơn (1778-1802).
Còn các triều đại khác thì cứ theo tên cũ mà các sử chữ Hán đã gọi,
như Lý Bôn vẫn là Tiền Lý, Phật-Tử vẫn là Hậu Lý, còn Lê thuộc họ Lê
Hoàn vẫn đứng riêng một triều Lê, Lý thuộc họ Lý Thái-tổ vẫn đứng riêng
một triều Lý…
12) Các sử xưa thường hay phân biệt chính thống và ngụy triều ; đó vì
quan niệm người xưa nghiêm định cái phận vua tôi và đứng chủ quan theo
từng triều đại. Nay ta chỉ thừa nhận những sử sự đã có và những người đã
đóng vai lãnh đạo, thì không kể ai là chính thống hay ai là tiếm ngụy cả.
Vậy khi chép về nhà Hồ, nhà Mạc hay nhà Tây-sơn, bộ sử này cũng
liệt họ làm một triều đại và xưng hô theo lệ đã định ở điều thứ 9 trên.
13) Những bia cổ dùng làm tài liệu cho bộ sử này là căn cứ vào các
bản do trường Đông phương Bác cổ đã rập được hoặc đã in trên Tùng san
hay trên tờ Dân Việt-nam của trường Bác cổ. Nếu họa hoằn có sự xê xích
ít chữ hay khác hẳn cả bài là do người sở tại hoặc thấy bia mòn mà tự tiện
đục lại, hoặc khắc bài mới lên nền bia cũ. Đó là một chuyện vượt hẳn ra
ngoài phạm vi kiểm điểm của chúng tôi.