IV. SUY ĐOÁN VỀ BA CHỮ « HỒNG BÀNG
THỊ »
鴻龐氏
« Hồng » – Theo Từ nguyên thì « Hồng »
鴻 có mấy nghĩa :
1. Tên một thứ chim nước, to hơn con nhạn : cánh đen, bụng trắng,
lưng và cổ màu tro. Tính nó mạnh dạn, thính giác lanh và bén, ưa đậu bên
hồ.
2. Thông dụng như chữ « hồng »
洪 là lớn, như nói « hồng thủy » 鴻
水 tức là 洪水 (nước lớn).
3. Chim « hồng », như thấy nói trong các sách cổ, phần nhiều là chỉ về
con hồng-hộc, tức nay gọi là « ngỗng trời » (thiên nga).
- Nếu đi với « hoang » thì « hồng hoang »
鴻荒 cũng như « hồng
hoang »
洪荒, nghĩa là thái cổ.
- Nếu đi với « mông »
蒙 hoặc « mông » 濛 thì « hồng mông » nghĩa
là « nguyên khí tự nhiên ».
« Bàng » – Cũng theo Từ nguyên thì « bàng »
龐 có những nghĩa này
: 1. Dày, lớn. 2. Bác tạp, không thuần túy. 3. Tên riêng một họ. Nếu đứng
trên chữ « hồng » thì « bàng hồng » nghĩa là « quảng đại » (rộng lớn).
« Thị » – Theo Thuyết văn thì « thị »
氏 có nghĩa gốc là đất gò, đồi,
núi ; như Hoàng-đế ban đầu ở đất Hữu-hùng
, nên gọi là Hữu-hùng thị ;
sau dời đến Hiên-viên-chi-khưu
, nên lại gọi là Hiên-viên thị. Như vậy «
thị » tất là nhân chỗ đất ở mà được gọi tên.
Ngoài ra, chữ « thị » còn có nghĩa chỉ về bộ-lạc mà trình độ văn hóa
hãy còn lạc hậu, tức là tập đoàn chưa dựng thành quốc-gia, chẳng hạn,
những « thị » ở đời Xuân-thu (722-481 tr. C. n.) như Lộ-thị
, Giáp-thị
…
Như vậy « thị » không phải là « họ » mà là bộ tộc, tức là « thị tộc »
theo danh-từ về xã-hội học đời nay. Thế thì có thể nói rằng Hồng-bàng chỉ