LỊCH SỬ XÃ HỘI VIỆT NAM - TẬP 1 - Trang 45

IV. SUY ĐOÁN VỀ BA CHỮ « HỒNG BÀNG

THỊ »

鴻龐氏

« Hồng » Theo Từ nguyên thì « Hồng »

có mấy nghĩa :

1. Tên một thứ chim nước, to hơn con nhạn : cánh đen, bụng trắng,

lưng và cổ màu tro. Tính nó mạnh dạn, thính giác lanh và bén, ưa đậu bên
hồ.

2. Thông dụng như chữ « hồng »

lớn, như nói « hồng thủy »

tức là 洪水 (nước lớn).

3. Chim « hồng », như thấy nói trong các sách cổ, phần nhiều là chỉ về

con hồng-hộc, tức nay gọi là « ngỗng trời » (thiên nga).

- Nếu đi với « hoang » thì « hồng hoang »

鴻荒 cũng như « hồng

hoang »

洪荒, nghĩa là thái cổ.

- Nếu đi với « mông »

hoặc « mông » thì « hồng mông » nghĩa

là « nguyên khí tự nhiên ».

« Bàng » Cũng theo Từ nguyên thì « bàng »

龐 có những nghĩa này

: 1. Dày, lớn. 2. Bác tạp, không thuần túy. 3. Tên riêng một họ. Nếu đứng
trên chữ « hồng » thì « bàng hồng » nghĩa là « quảng đại » (rộng lớn).

« Thị » Theo Thuyết văn thì « thị »

có nghĩa gốc là đất gò, đồi,

núi ; như Hoàng-đế ban đầu ở đất Hữu-hùng

118

, nên gọi là Hữu-hùng thị ;

sau dời đến Hiên-viên-chi-khưu

119

, nên lại gọi là Hiên-viên thị. Như vậy «

thị » tất là nhân chỗ đất ở mà được gọi tên.

Ngoài ra, chữ « thị » còn có nghĩa chỉ về bộ-lạc mà trình độ văn hóa

hãy còn lạc hậu, tức là tập đoàn chưa dựng thành quốc-gia, chẳng hạn,
những « thị » ở đời Xuân-thu (722-481 tr. C. n.) như Lộ-thị

120

, Giáp-thị

121

Như vậy « thị » không phải là « họ » mà là bộ tộc, tức là « thị tộc »

theo danh-từ về xã-hội học đời nay. Thế thì có thể nói rằng Hồng-bàng chỉ