chắn không phải là không có tiền lệ là khi bệnh nhân chết và có quá nhiều thầy thuốc chăm sóc, nhưng
trường hợp này khơi dậy một cuộc tranh luận dữ dội và hàng loạt các truyền đơn. Lúc đầu, Denis quy cái
chết là do bệnh nhân quá bê tha rượu chè, gái gú, thuốc lá, nhưng sau đó ông ta lại cho rằng chính do bà
vợ đã cố tình đầu độc ông chồng. Mặc dù tòa án không kết tội Denis là hành nghề sơ suất dù sơ ý hay cố
ý, nhưng chính việc truyền máu là phạm tội. Denis và Emmerez từ bỏ môn y học thực nghiệm và quay về
với nghề nghiệp cũ, chắc là sẽ sử dụng các bài thuốc chính thống còn có phần nguy hiểm và tạo ra nhiều
phẫn nộ hơn so với máu bê.
Các nhà khoa học người Anh rất quan tâm đến những thí nghiệm của Denis, nhưng họ cũng đã thu
được thành công trong việc truyền máu.
Khoảng 6 tháng sau ca truyền máu đầu tiên ở người của Denis, Richard Lower và cộng sự đã thuê Arthur
Coga, một gã được xem là trác táng, khùng và có phần gàn dở, để làm thử nghiệm. Một vài đồng nghiệp
của Lower hoài nghi, nhưng những người khác thì tin rằng truyền máu sẽ làm nguội bớt máu của Coga
và chữa cho anh ta hết chứng rồ. Sau khi được tiêm khoảng 350cc máu cừu vào người, Coga cho biết là
cảm thấy khá hơn. Rủi thay, khi truyền lần thứ hai thì sức khỏe của anh ta trở nên tồi tệ. Tin đồn lan
truyền cho rằng hành vi điên rồ của anh ta vốn do những người đối nghịch với Hội Hoàng gia cố ý tạo ra
nhằm làm hạ uy tín của hội này và làm cho cuộc thí nghiệm trở nên lố bịch. Các thành viên uyên bác của
Hội Hoàng gia đưa ra lời biện hộ vì sợ bị chê cười. Trong các báo cáo, họ nêu tên những nhà viết văn
trào phúng như Jonathan Swift (1667-1745) và Thomas Shadwell (1641-1692) cùng với nhiều thông tin
mới thu nhận được. Trong vở hài kịch Thần đồng của Shadwell, nhà khoa học tài tử Nicholas Gimcrack
đã truyền khoảng 1900cc máu cừu cho một tay gàn dở. Sau khi truyền, người bệnh trở nên rất giống cừu
đến nỗi anh ta cứ kêu be be mãi, anh ta nhai lại đồ, ợ lên miệng, và trên người mọc lên toàn là một lớp
lông cừu rất đẹp, còn dưới đít thì mọc ra một cái đuôi cừu. Ngài Nicholas có kế hoạch truyền máu cho
nhiều người điên nữa để thu lấy lông cừu.
Truyền máu an toàn chỉ được thực hiện khi nhà miễn dịch học Karl Landsteiner (1868-1943) chứng minh
là ở người có các nhóm máu khác nhau. Năm 1930, Landsteiner được trao giải Nobel vì những nghiên
cứu của ông về các yếu tố nhóm máu. Landsteiner phát hiện rằng loài người thuộc vào một trong 4 nhóm
máu khác nhau, gọi là O, A, B, và AB. Định loại nhóm máu cũng cung cấp các thông tin có ích đối với
tội phạm, phù hợp máu giữa con và cha mẹ, di truyền, và nhân chủng học. Thật vậy, có quá nhiều thông
tin có thể thu được từ máu đến nỗi bệnh nhân nhập viện nhiều tuần lễ có thể nghĩ rằng việc trích huyết
một lần nữa là một phần không thiếu được của ngành y.
Mặc dù thực tế là truyền máu đã trở thành một thủ thuật quen thuộc, nhưng những huyền thoại và mê tín
vẫn còn tiếp tục nẩy nở dưới nhiều hình thức, làm cho nhiều người không muốn cho hoặc nhận máu. Dĩ
nhiên, không phải tất cả các lo sợ về tính an toàn truyền máu là không có cơ sở. Nếu máu không được
kiểm tra đúng mức, người nhận máu và các chế phẩm từ máu có nguy cơ mắc phải những bệnh như
giang mai, sốt rét, viêm gan, AIDS và thậm chí sốt West Nile. Các mô và tạng của người bị nhiễm trùng
và nhiễm bẩn đã gây nên các trường hợp nhiễm trùng trầm trọng cho người nhận máu. Nhiều trường hợp
ghép cơ quan đã sử dụng mô mềm như gân, dây chằng, và sụn lấy từ xác chết để dùng trong phẫu thuật
chỉnh hình chọn lọc. Một cái xác có thể cung cấp đủ mô cho 30 ca ghép mô. Van tim cũng được thu thập
để thay thế cho van hỏng. Không có cách dự phòng hoặc phát hiện sự vấy nhiễm vi khuẩn và vi nấm đã
làm cho người nhận mô chết vì nhiễm trùng. Một nguy cơ mới đối với truyền máu và ghép tạng xuất
hiện lần đầu tiên vào năm 2002 khi 4 người được ghép tim, gan và thận lấy từ cùng một người cho bị