“Vâng, và nhiều khả năng nhất là anh đến một ngôi làng nào đó,
anh phải ăn thứ gì đó không hợp vệ sinh như…”
“Dê,” anh ta nói. Trước đó tôi đã được nghe kể về một bữa thịt dê
tại vùng nông thôn Afghanistan, với những cụm từ như “lông cháy
sém” và “còn không thì sống sít”. Một điều chắc chắn là rất mất vệ
sinh, Carey xác nhận. “Thật không may, chúng tôi không chiến đấu ở
các nước phát triển.”
Carey nói mình “không”, như Mark Riddle từng nghe nói một số
người đã làm, uống thuốc kháng sinh và thuốc Imodium phòng ngừa
trước mỗi nhiệm vụ hay sau khi ăn thịt dê. Anh ta có một sự phòng bị
khác. Đó là một luật nghiêm ngặt trong lực lượng đặc nhiệm. “Cô phải
đi vệ sinh trước khi làm một nhiệm vụ nguy hiểm.” Tông giọng trầm
nghiêm túc của Carey không hề biến sắc lúc đang nói. Seamus đành
góp tiếng, “Kiểu như một chuyến đi chơi với cả gia đình, và ông bố thì
kiểu ‘Ta không quan tâm việc các con không muốn đi’ nhỉ!”
Trong chuyến đi chơi cùng gia đình, bạn không rơi vào tầm ngắm
của một khẩu súng trường tự động khi đang ngồi xổm trên mặt đất. A.
J. Bollet, nhà sử học nghiên cứu về y học quân sự, đã trích dẫn một lá
thư của một binh sĩ trong Nội chiến Mỹ trong đó có viết rằng, một luật
danh dự bất thành văn là cấm bắn một người đang “đáp lại tiếng gọi
khẩn thiết của tự nhiên”
. Trong cuộc chiến chống khủng bố, không
hề có quy ước như vậy.
Tôi vẫn cố nói úp mở để Carey kể về một nhiệm vụ cụ thể đầy hiểm
nguy. “Anh đã bao giờ ở trong một tình huống mà anh đã bị…”
“Mất năng lực?” Tôi thích cụm từ này: một sự kết hợp giữa “không
có khả năng” và “bị vô hiệu”.
“Có. Tôi đã từng bị mất khả năng chiến đấu vì ngộ độc thức ăn.”
Carey ngả dựa người ra sau, một tay duỗi dài trên lưng tựa của chiếc
ghế bên cạnh. “Tôi đang không hiểu anh chị muốn gì từ tôi.”