miếng vá vào chỗ thủng theo hướng vuông góc từ trên xuống. Nó phải
được trượt vào từ phía ngoài mép lỗ thủng, giống như kéo một chiếc
chăn trùm qua một thùng rác đang cháy, và sau đó buộc chặt.
Hough quan sát một cặp thủy thủ loay hoay mãi mà không thể bịt lỗ
thủng bằng một miếng vá cỡ trung được gọi là “ tấm lưng khỏe”. Đoạn
dây đai họ đang sử dụng được thiết kế để có thể chịu được áp suất
nước cao đến mức 6.000 psi. “Vậy nên, quá tệ khi họ không thể xử lý
được lỗ rò với áp suất nước ở mức 90 psi.” Hough chỉ muốn giơ một
tấm biển đỏ vốn không tồn tại cho hai anh chàng thấy: TỰ SỬA CÁI
LỖI CHẾT TIỆT ĐÓ ĐI.
Hough rất nghiêm khắc với học viên của mình bởi những gì diễn ra
ở khu Huấn luyện Ướt này chỉ là một trò chơi của trẻ con nếu so với
những gì xảy ra ngoài thực tế. Đó là tình huống đã xảy ra trên tàu USS
Squalus, ở độ sâu 15 m, sau khi một van dẫn khí đường kính 79 cm đã
không đóng trong một lần lặn thử năm 1939. “Biển cả đã tìm được
đường đột nhập vào mê cung ống chạy khắp chiều dài của tàu Squalus.
Trong phòng điều khiển, những tia nước muối phun ra từ hàng tá chỗ
khác nhau.” Tôi xin trích dẫn lời bình luận của Peter Maas về vụ chìm
tàu này trong cuốn sách The Terrible Hours (tạm dịch: Thời khắc kinh
hoàng). “Các thủy thủ đã làm việc một cách điên cuồng… bám vào bất
cứ thứ gì có thể để đứng vững.” Sau đó tất cả đèn vụt tắt.
Còn đây là báo cáo từ tàu ngầm tuần tiễu về chuyến hải hành cuối
cùng của tàu USS Tang, ngày 24 tháng Mười năm 1944, ngày mà một
quả ngư lôi do tàu này phóng đi lao lên mặt biển, và quay ngoắt về
mạn trái rồi phá một lỗ ở đuôi tàu. “Đuôi tàu của chiếc Tang dần chìm
xuống giống như bạn thả một con lắc từ một vị trí nằm ngang.” Đại úy
hải quân Lawrence Savadkin miêu tả khung cảnh: “Tàu nghiêng đột
ngột khiến cho các thủy thủ và thiết bị rời va đập rồi rơi về phía tôi
cùng với nước tràn vào.” Chiếc tàu ngầm trong khu Huấn luyện Ướt
không nghiêng, nhưng chiếc trong Trường Huấn luyện Sĩ quan tại đảo
Rhode, có tên USS Buttercup, thì có. (Hough đột nhiên nói đầy cảm