hùng. Trẫm biết chút võ nghệ, tuy không tinh thâm bằng hiền đệ
nhưng cũng cảm thấy thiên hạ rộng lớn, hào kiệt ùn ùn, có được họ
càng như hổ thêm cánh. Nhưng lời rằng kẻ chiến binh chính là
hung khí, một đời này há chịu cúi đầu an phận cho xong? Ngày khác
ắt thành nguồn gốc loạn lạc của thiên hạ. Huống chi lúc này, tuy
thiên hạ đã định nhưng lòng dân chưa yên, Trung Nguyên nghèo khó,
làm sao ngăn được một phen mầm loạn này?”
Quy Hữu Tông là trang đại hào kiệt, bấy giờ cười lớn, nói: “Hoàng
thượng, ta thấy người cả nghĩ rồi. Trên triều đình có ngài tọa
trấn, ai dám làm phản? Đến như trong giang hồ, còn có ta đây,
cũng không tin bọn họ có thể lật nổi trời.”
Thái tông đáp: “Ài, có ta có đệ, đương nhiên còn dễ nói, nhưng tới
lớp con cháu thì sao? Hậu nhân Triệu gia ta đều sinh trưởng trong
thái bình, tới lúc ấy bọn chúng làm sao trấn áp nổi? Còn như trong
giang hồ, đệ cũng không thể sống quá trăm năm, huống chi đệ còn
không chịu thu nhận đồ đệ. Mà dù có thu nhận đồ đệ cũng chưa
biết đồ nhi hay hay dở. Tới khi ta cùng đệ trăm tuổi rồi, thiên hạ
phải làm thế nào? Nếu có biến loạn, thương sinh lại chịu khổ
rồi!”
Quy Hữu Tông nghe lời này mà suy tư. Nghe kể vị tiền bối đó
bởi thế phát nguyện, cho dù kẻ chiến binh có là hung khí, hắn sẽ
loại bỏ hết chiến binh trong thiên hạ! Hắn nói được làm được, bèn
cùng ước định với Thái tông, mỗi người lo một bên. Sau đó, Thái Tông
sáng lập Phủ Binh chế, xóa hết binh quyền trong thiên hạ, Gom
hết can qua, lấy da hổ bọc; thả ngựa núi nam, không thu gom
nữa
. Mà vị tiền bối nọ cũng dùng công sức ba năm, ở một chỗ
mật cốc ven Trường Giang, tìm được Đại Thạch Pha, dựa vào di tích
hồng hoang, dốc lòng suy nghĩ bố trí thành trận, sau đó ước hẹn
cao thủ võ học trong các danh môn đại phái cho tới các bậc kỳ nhân dị
sĩ trong thiên hạ, tổng cộng hai mươi chín vị, vây cả vào đại thạch trận