- Để tôi xem - Pearson bước như chạy trên sàn. Những người khác quay
trở vào phòng.
Pearson nhìn dãy ống nghiệm. Ông liếm môi ra dáng hồi hộp. Nếu
Alexander nói đúng thì đây là giây phút họ đã miệt mài làm việc để tìm
đến.
- Đọc bảng kê đi ! - Ông nói.
John Alexander nhấc một cuốn sách giáo khoa đã mở sẵn ở một trang
kép. Đó là bảng chia cột liệt kê các phản ứng hóa sinh của vi khuẩn trong
ống nghiệm có môi trường đường. Đặt ngón tay vào cột “Salmonella
typhi”, anh chuẩn bị đọc từ trên xuống dưới.
Pearson nhặt ống nghiệm đầu tiên trong số mười ống và xướng tên :
- Glucoza.
Dò bảng kê, Alexander trả lời :
- Sinh axit, không sinh hơi.
Pearson gật đầu, ông lựa ống nghiệm thứ hai.
- Lactoza.
- Không axít, không hơi. - Alexander đọc.
- Đúng ! ... Dulcitol.
Alexander lại đọc :
- Không axít, không hơi - Một lần nữa, phản ứng đối với vi khuẩn
thương hàn lại chính xác. Bầu không khí trong phòng mỗi lúc một căng
thẳng.
Pearson lấy một ống nghiệm nữa.
- Mannitol.
- Sinh axít, không sinh hơi.
- Chính xác !... Maltoza.
- Sinh axít, không sinh hơi.
Pearson gật đầu. Hết sáu, còn bốn. Ông lại xướng tên :
- Xyloza.
Alexander lại đọc :
- Axít, không hơi.
Bảy.