họ đã hết lòng vì con cháu, giống như những người phụ nữ đã
mang những tấm ván gỗ đến đây.
Khi chúng tôi lái xe trở lại thành phố, tôi đeo kính mát lên và
nhìn ra ngoài cửa sổ, hy vọng những người khác trong xe không nhìn
thấy những giọt nước mắt đang chảy dài trên khuôn mặt tôi. Ngôi
trường này, giấc mơ của tôi, đang diễn ra ngay trước mắt tôi.
Hai tuần sau đó là quãng thời gian tất cả chúng tôi đều bận
rộn với việc xây trường. Sáng sáng ở nhà nghỉ, một phụ nữ Lào gần
30 tuổi tên là Lanoy sẽ mang cho tôi bữa sáng cùng với một nụ cười
tươi. Công việc của chị là giặt ủi và thay ga trải giường, nhưng chị đã
học nói tiếng Anh rất tốt từ bà chủ nhà nghỉ, đồng thời rất bạo
dạn thực hành nói tiếng Anh với khách du lịch qua đây. Sau khi trò
chuyện với chị về các kế hoạch trong ngày của tôi, tôi mất một giờ
đi xe gắn máy trên những con đường vắt mình qua các thung lũng
và những cây cầu để đến Pha Theung chơi với bọn trẻ và kiểm tra
tiến độ xây trường.
Buổi sáng, tôi đào mương, chở gạch, trộn xi măng với những người
thợ xây; chiều đến, tôi chơi trò chơi, bơi lội ở sông với lũ trẻ. Thói
quen đã trở nên quá đỗi quen thuộc đến mức ngay khi bọn trẻ ăn
trưa xong và buổi chiều được nghỉ, chúng sẽ nắm lấy tay tôi chạy
xuống ngọn đồi phía sau sân trường, hò hét thỏa thích và đẩy nhau
xuống dòng nước nông, ấm phía dưới. Có những hôm, tôi chạy thi
với một nhóm mấy cậu nhóc khoảng 10 tuổi tới một tảng đá lớn nhô
ra từ sông, có lúc chúng lại đưa tôi đi đánh cá bằng những chiếc
lưới đan tay trên một chiếc xuồng gỗ cũ.
Khi nằm thả nổi trên sông, tôi thường tự hỏi, Các bạn mình đang
làm gì lúc này nhỉ? Họ đang ở các bữa tiệc thời thượng, hoặc tham dự
các cuộc họp với những nhân vật quan trọng, còn tôi đang ở giữa núi
rừng, bơi lội và chơi trò đuổi bắt. Tôi không thể hạnh phúc hơn với