Tiếng khóc, tiếng lầm rầm cầu nguyện và tiếng la hét vẫn
tiếp tục khi chúng tôi ngồi chờ hướng dẫn. Tôi ngồi yên vị ở phía
ngoài phòng ăn. Để khỏi bị văng khắp sàn, các học viên nắm lấy
những chiếc cọc, thành lan can và ôm nhau – cầu trời con tàu đừng
lật ngược. Tàu nghiêng sang một bên cho đến khi chúng tôi đúng là
ở
song song với mặt nước, rồi vật ngược sang phía còn lại, khiến
dao kéo và bát đĩa vỡ xô loảng xoảng trên sàn bếp. Tôi không chắc
còn gì đáng sợ hơn thế – mạng sống của chúng tôi đang phải phó
mặc vào biển cả; qua những ô cửa sổ đầy nước hoặc những đám mây,
chúng tôi biết mình nghiêng một góc bao nhiêu độ so với mặt biển.
Sau vài giờ, một nhóm học viên cho rằng chúng tôi cần phải tìm
cách thoát ra khỏi tình cảnh chết người này. Chúng tôi biết mình
phải lấy xuồng ra khỏi các cầu trục neo chặt ở phía ngoài. Có một
cánh cửa gỗ dẫn ra một lối đi rộng khoảng ba mét với một lan can
chắc chắn. Nếu bám chắc, chúng tôi có thể đi ra được phía
xuồng cứu sinh chứ? Một người gợi ý chúng tôi nên thử xem sao.
Một thủy thủ kéo cánh cửa, gió quất mạnh khiến nó mở toang.
“Đóng cửa lại! Đóng cửa lại!” các học viên khác hét lên.
Lúc này con tàu nghiêng hẳn sang một bên. Chúng tôi bị rơi vào
thế như đang leo dốc. Cánh cửa mở lơ lửng ở phía dưới chúng tôi,
trông giống như một miệng hố dẫn đến dòng nước chết người
phía dưới. Các học viên bắt đầu trượt về phía cửa. Nếu ngã, họ sẽ
lọt thỏm vào dòng nước biển lạnh cắt da cắt thịt phía dưới. Những
tiếng la hét ngày càng to hơn.
Chúng tôi ôm ghì lấy nhau để khỏi ngã, và khi con tàu lắc mình
sang phía bên kia, một nhân viên trên tàu đã kịp nắm lấy tay nắm
cửa và đóng nó lại. Chúng tôi ngã quỵ, kiệt sức.