Năm Mộc. Hắn phải sống:"Con Tám bị bệnh trời hành. Ráng sống mà tìm
cho nó một tấm chồng!". Cơ hội cuối cùng tác giả dành cho kẻ sắp nhận lời
nguyền thứ ba chăng? Không đó là lời chúc phúc một hy vọng thể hiện
nhân tính cứu độ tâm hồn.
Hai Thìn làm xong phận sự với làng Đoàn Kết đáp ứng ước nguyện
của người cha: để lại giọt máu (con trai) nối dõi. Anh thanh thản "chìm vào
vòng ôm tiếc thương của mình. Biển cả". Còn Tòng Út:
"Anh thấy mình từ từ chìm xuống. Hai tay anh cố vươn cao một tay
cầm đàn tay kia cố gẩy vào sáu sợi dây đàn nghĩ là mình nghe những âm
thanh cuối cùng của rừng núi. Anh hướng về phía bờ đọc lời khấn Thần
Rừng lần đầu tiên bằng tiếng người dân tộc kể từ khi bị trừng phạt. Cũng là
lần cuối cùng của đời anh".
Tất cả đều mãn nguyện. Cả người đọc. Chúng ta không còn hỏi tại sao
tại sao có sự phi lí ở các tình tiết nữa. Có thể nó mang tính tượng trưng hay
ẩn dụ hoặc một hiện thực đầy huyền ảo nếu có thể nói thế. Bởi trước đó
người đọc đã được nghe nhiều đoạn đối thoại của Hai Thìn và Gió biển
(tượng trưng cho linh giác tình cảm) Hai Thìn và Con ó (tượng trưng cho sự
khôn ngoan cho lí tính muốn tìm hiểu cái bất khả tri của cõi người) Hai
Thìn và tia nắng hay căn chòi … Cả Út Tòng với cây đàn ống tre. Không
vấn đề gì cả!
Đấy là cái tài của Khôi Vũ.
Tài kể chuyện: Hai dòng lịch sử cận và hiện đại với các biến cố dồn
dập của một câu chuyện xảy ra trong quá khứ/hiện tại đuổi theo
nhau: 1977/1802 1836 - 1978/1862 - 1979/1864 1865 - 1985/1925 -
1985/1939 - 1987 … đan xen trùng lớp đã tạo sức hấp dẫn đặc biệt của tiểu
thuyết. Cho đến khi đoạn kết của quá khứ bắt kịp khởi đầu của hiện tại ở
thời điểm 1939 lúc Hai xung phong thí phát quy y thành Thích Huệ Mẫn
chúng ta mới vỡ ra rằng: "vua biển" Hai Thìn chính là kẻ đang phải chịu án
"lời nguyền" hai trăm năm trước. Từ đó câu chuyện hiện tại phát triển…
Cả tài dụng văn: anh đã thuyết phục được người đọc tin vào câu
chuyện anh kể bằng câu văn ngắn gân guốc hơi văn nhanh khỏe khoắn. Hãy
nghe anh tả "ngọn lửa" thứ ngọn lửa xuất phát từ căn bệnh "trời hành"