một kẻ đã chết là hoàn toàn không cần thiết.
Tấm mặt nạ ly miêu ánh lên những tia sáng vàng kim mờ ảo. Trời đã bắt
đầu sẫm tối. Người đàn bà vẫn ngồi trong một tư thế hết sức cao nhã, tiếp
tục kể:
- Hoàng tổ nhà ta thực sự đã nhờ vào bảo bối mà có được thiên hạ, cai trị
thiên hạ. Vị cao nhân xem trong tổ huấn và bảo vật của tổ tiên, đã ngộ ra
huyền cơ trong đó và mách nước rằng, bảo khí và năng lượng ẩn chứa trong
bảo bối là không đủ, và đang dần dần suy yếu. Nếu muốn tiếp tục nạp đủ
bảo khí, cần phải tìm nơi cát địa để cất giữ trăm năm. Nhưng thiên hạ là
của nhà ta, làm sao có thể để kẻ khác chiếm đoạt cả trăm năm được, nên
đành phải tìm cách khác. Vị cao nhân đó tìm khắp trong sách vở, đi khắp cả
thiên hạ, dốc hết toàn bộ tinh khí thần, cuối cùng đã ngộ ra được một cách,
đồng thời cất giấu cách này vào trong một hộp ngọc, giao cho người tại vị
trong gia tộc đời đời lưu truyền. Đợi đến khi khí vận đã suy, hãy làm theo
cách đó.
Hơi thở của ông Lục càng lúc càng kéo dài và nặng nề hơn, hít hay thở
đều phập phù không đều, dường như sắp đứt đoạn đến nơi. Thế nhưng trí
não của ông càng lúc càng minh mẫn khác thường.
Ông rất thông thuộc lịch sử triều Minh, đó là một vương triều rối loạn và
kỳ dị. Rất nhiều hiện tượng quái dị xuất hiện trong triều đại này và kết cục
cuối cùng của nó đều ứng nghiệm với thuyết bảo vật suy khí. Như vậy,
phương pháp của vị cao nhân kia hẳn là vẫn chưa được thực hiện, hoặc cơ
bản là không hề linh nghiệm.
- Thành Tổ Đế đoạt ngai vàng của Kiến Văn Đế, sử sách đều nói rằng
sau sự biến Tĩnh nạn, không biết kết cục của Kiến Văn Đế ra sao. Nhưng
kỳ thực, không phải ông ta nhảy vào biển lửa tự sát như lời đồn đại, mà ông
ta đã trốn thoát được ra ngoài.
Khi Thành Tổ Đế đánh vào Nam Kinh, có Vương Việt ở điện Phụng
Tiên đã dâng lên Kiến Văn Đế một chiếc hòm. Đây chính là di vật mà Thái
Tổ hoàng đế để lại cho người cháu yêu quý. Trong chiếc hòm có ba tấm độ