Chiếc bàn được đóng từ gỗ gụ lâu năm, góc cạnh cứng rắn không kém gì
búa thép. Góc trán bên trái của mụ xác sống bị cạnh bàn đập nứt một
đường, tét thành hai mép thịt bầy nhầy, một dòng mủ vàng sền sệt giàn giụa
chảy ra, hôi tanh lơm giọng.
Lỗ Thiên Liễu tiếp tục quăng một chiếc ghế thái sư mặt hẹp lưng thẳng
về phía mụ xác sống, nhưng mụ đã tránh được một cách rất mực khéo léo,
gần như là chui qua khe hở giữa bốn chân ghế.
Lại một chiếc ghế thái sư nữa vụt đến, lần này chiếc ghế được quăng lên
cao rồi rơi thẳng xuống. Nhưng cái xác chẳng thèm để ý, vì cái ghế không
phải quăng về phía mụ, mà là quăng về phía cầu thang bên kia.
Chỉ nghe “xẹt” một tiếng khe khẽ mà cực ngắn gọn, chiếc ghế thái sư chỉ
còn lại phần lưng tựa rơi xuống đầu cầu thang. Lỗ Thiên Liễu liếc thấy vết
cắt sắc ngọt mịn như lụa, quả đúng như cô dự liệu, bên cầu thang đó đã gài
sẵn một khảm diện lợi hại gấp bội.
Mụ xác sống chớp lấy cơ hội lập tức xáp tới. Lần này tốc độ của mụ
nhanh hơn rất nhiều, chỉ lắc mình hai cái, đã vụt tới trước mặt Lỗ Thiên
Liễu. Lỗ Thiên Liễu chỉ biết tiếp tục lui về phía sân khấu, vì ở đó có rất
nhiều bàn ghế, hẳn sẽ gây cản trở cho cái xác chỉ biết di chuyển bằng
những cú vặn vọ quái dị, lại không thể nhảy cao.
Trên sân khấu, dãy bàn ghế đầu tiên được làm từ gỗ đàn hương, ghế
được sắp về một hướng, bàn nhỏ ghế to, đó là chỗ ngồi của chủ nhân và
khách quý. Dãy thứ hai được làm từ gỗ gụ, mặt bàn bằng đá cẩm thạch, ghế
ngồi xếp ở ba phía, bàn nhỏ vuông vắn, ghế hẹp lưng thẳng, đây là chỗ ngồi
của những người vai vế thấp trong nhà và khách khứa bình thường. Dãy thứ
ba gồm những chiếc bàn hẹp đặt giữa hai ghế, đây là chỗ ngồi cho những
thuộc hạ cấp cao của khách quý và những người họ hàng xa. Sau nữa chỉ có
ghế nhỏ, không có bàn, đó là chỗ ngồi của trẻ nhỏ, môn khách, quản gia,
thầy giáo…
Nhưng thật không ngờ, mặc dù bàn ghế rất nhiều, nhưng động tác của
mụ xác sống vẫn hết sức mau lẹ, dường như mụ đã rất thông thạo cách bài