nghiệp chưa khai thác hết tất cả các cơ hội để giảm chi phí; (2) trở
thành độc nhất trong một hoạt động là điều không mong đợi trước
đây; hoặc (3) một cải tiến cơ bản xuất hiện mà các đối thủ chưa tận
dụng, chẳng hạn như một quy trình tự động mới vừa giảm chi phí vừa
nâng cao chất lượng.
Các doanh nghiệp thường không khai thác được những cơ hội để cắt
giảm chi phí thông qua điều phối các hoạt động có liên kết với nhau
và việc điều phối này cũng tăng cường cho khác biệt hóa. Ví dụ như
điều phối tốt các hoạt động báo giá, thu mua và lịch trình sản xuất có
thể giảm được chi phí tồn kho và cùng lúc đó giảm thời gian hướng
dẫn giao hàng. Sự kiểm tra trên diện rộng của nhà cung cấp có thể làm
giảm chi phí kiểm tra của doanh nghiệp và đồng thời làm gia tăng độ
tin cậy của sản phẩm sau cùng. Trên thực tế, những cơ hội không
được khai thác để giảm chi phí thông qua các liên kết và có tác động
đến chất lượng cũng là nguyên nhân đặt nền móng cho quan niệm
thông thường rằng “chất lượng được thả nổi”. Tuy nhiên, vẫn tồn tại
khả năng đồng thời vừa nâng cao khác biệt hóa vừa giảm chi phí vì
các doanh nghiệp chưa khai thác hết cơ hội cắt giảm chi phí, chứ
không phải vì khác biệt hóa là không tốn kém.
Do đó, nếu doanh nghiệp tích cực cắt giảm chi phí thì những nỗ lực
để có sự độc nhất thường làm tăng thêm chi phí của họ. Tương tự như
vậy khi những đối thủ đã bắt chước được sự cải tiến cơ bản thì doanh
nghiệp chỉ có thể duy trì khác biệt hóa khi chấp nhận tăng thêm chi
phí. Sau đó, để đánh giá chi phí cho khác biệt hóa, doanh nghiệp phải
so sánh chi phí cho sự độc nhất trong một hoạt động với chi phí để
ngang bằng với đối thủ cạnh tranh.
Giá trị dành cho người mua và khác biệt hóa