bình quân theo đầu người của quốc gia. Năng suất của người lao
động xác định mức lương của họ, trong khi năng suất của đồng vốn
được sử dụng quyết định số lợi nhuận thu về của người nắm giữ
vốn
. Năng suất cao không chỉ giúp tăng thu nhập mà còn cho
phép người dân có nhiều thời gian rảnh rỗi hơn thay vì phải làm
việc nhiều giờ. Nó cũng tạo thêm nguồn thu nhập quốc dân từ việc
đánh thuế để chi trả cho các dịch vụ công ích, góp phần đẩy mạnh
mức sống. Khả năng có được một năng suất cao cũng cho phép các
doanh nghiệp của một quốc gia đáp ứng được những tiêu chuẩn xã
hội chặt chẽ để nâng cao mức sống, ví dụ như các tiêu chuẩn về
sức khỏe và độ an toàn, cơ hội việc làm ngang bằng và tác động
đối với môi trường.
Khái niệm có ý nghĩa duy nhất về sức cạnh tranh ở cấp quốc
gia là năng suất quốc gia. Một mức sống tăng dần phụ thuộc vào
khả năng đạt được những mức năng suất cao và tăng năng suất
theo thời gian của các doanh nghiệp trong một quốc gia. Nhiệm vụ
của chúng ta là hiểu được vì sao khả năng này lại xảy ra. Để duy trì
được sự tăng trưởng về năng suất đòi hỏi một nền kinh tế phải tự
nâng cấp mình liên tục. Các doanh nghiệp trong một quốc gia phải
không ngừng cải thiện năng suất trong các ngành công nghiệp hiện
có bằng cách nâng cao chất lượng sản phẩm, đưa thêm vào các tính
năng mới, cải tiến công nghệ sản phẩm, hoặc nâng cao hiệu quả
sản xuất. Ví dụ, nước Đức đã đạt được việc tăng năng suất trong
nhiều thập kỷ bởi vì các doanh nghiệp của nước này có thể sản
xuất ra ngày càng nhiều các sản phẩm khác nhau và đưa vào tự
động hóa nhiều khâu sản xuất để nâng sản lượng của mỗi người lao
động. Các doanh nghiệp trong một quốc gia cũng phải phát triển
được năng lực cần có để có thể cạnh tranh trong những phân khúc