dịch vụ hay thay đổi sản phẩm cho phù hợp với nhu cầu sở tại)
nhằm hỗ trợ việc thâm nhập sâu hơn vào các thị trường nước
ngoài. Các doanh nghiệp của một quốc gia, do đó, có thể tăng sản
lượng xuất khẩu và thu lợi nhuận ở nước ngoài, nguồn lợi nhuận
này sẽ được mang về nước nhờ đó tăng thu nhập quốc dân. Một ví
dụ minh họa đó là việc Nhật Bản chuyển các hoạt động lắp ráp
những sản phẩm điện tử đơn giản, ban đầu là sang Hàn Quốc, Đài
Loan, tiếp theo là Hồng Kông và bây giờ là tới Malaysia và Thái
Lan.
Không một quốc gia nào có thể cạnh tranh (và trở thành một
quốc gia xuất khẩu ròng) trong mọi lĩnh vực . Nhân lực và các
nguồn lực khác của một quốc gia là có giới hạn. Điều lý tưởng là
những nguồn lực này được huy động để sử dụng một cách hữu ích
nhất có thể. Sự thành công trong xuất khẩu của các ngành công
nghiệp có lợi thế cạnh tranh sẽ đẩy chi phí nhân công, nguồn
nguyên liệu và vốn ở quốc gia đó lên cao, khiến các ngành khác
không có tính cạnh tranh. Ví dụ như, ở Đức, Thụy Điển và Thụy
Sĩ, quá trình này đã dẫn tới sự thu hẹp lại của ngành trang sức
trước những doanh nghiệp trong các ngành chuyên sâu có thể trả
mức lương rất cao
. Cùng lúc, sự mở rộng xuất khẩu của những
ngành công nghiệp có tính cạnh tranh gây áp lực đối với tỉ giá hối
đoái, khiến cho các ngành có tính cạnh tranh tương đối kém hơn
trong quốc gia đó gặp nhiều khó khăn hơn khi xuất khẩu
. Ngay
cả các quốc gia có mức sống cao nhất cũng có nhiều ngành công
nghiệp mà các doanh nghiệp nội địa không có khả năng cạnh tranh.
Quá trình mở rộng xuất khẩu của các doanh nghiệp có năng
suất hơn, chuyển các hoạt động kém tính cạnh tranh ra hải ngoại
thông qua đầu tư nước ngoài, và nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ