đường phố của Paris... Sung sướng, chắc chắn là như vậy, nhưng không hài
lòng, tôi nghĩ đến các đồng ngũ của tôi bị bỏ lại trong cái khu rừng rậm tệ
hại nhưng hấp dẫn ấy.
Sân ga Toul! Vẫn cái sân ga không bao giờ thay đổi.
Bốn tháng nghỉ phép trong cái khung cảnh u ám của mùa đông vùng
Lorraine1 trú ngụ trong một căn buồng nhỏ ở nhà mẹ vợ, thân hình tôi gầy
đi, sốt rét, kiết lị. Một buổi chiều khi ngồi ở nhà người thợ cắt tóc, tôi bị
ngất xỉu. Tôi trả giá cho những gì phải chịu đựng trong suốt những năm
chiến trận ấy, lúc đó tôi không hề bị hắt hơi bao giờ.
Khẩu phần ăn quá béo bổ không thích hợp cho tôi, tôi cần phải có thời
gian thích ứng dần dần: tôi yêu cầu cho ăn món cháo gạo và món thịt hầm.
Phải, đây là thu hoạch của chúng tôi: Thiếu uý François chết, Bruillot, “ông
Bournazel” của tôi, tôi quên không nhắc đến cậu ấy, đã bị thương ở chân
trong trận tấn công Văn Yên, Bréau sẽ tử vong trong thời kỳ tôi nghỉ phép.
Và đối với những người trở về nhà, cần phải học lại lối sống ở nơi những
người văn minh.
Thời gian dài tôi cố gắng tìm cách lấy lại một sự thăng bằng có ích kể cả
việc tập đi bộ hàng ngày, cuộc sống trong sạch, những chuyến đi tản bộ
trong khu rừng. Chiếc xe Mercédès M.G.6142 vẫn còn chạy được. Rõ ràng
là tôi thấy thiếu vắng rừng cây và các trách nhiệm. Ngày cuối cùng của kì
nghỉ phép tới gần, tôi đề nghị lại được đi sang Đông Dương. Tôi không thể
bỏ mặc các đồng ngũ chiến đấu ở bên đó, hoặc là nếu không thì tôi phải rời
bỏ quân đội. Cuối cùng, tôi được bổ nhiệm... Tôi phải tới tiểu đoàn dù số 3
đang được xây dựng ở Saint Brieuc2.
Tháng hai 1948... Tôi sắp tròn ba mươi hai tuổi. Khoảng sân nhà ga. Tôi
ra đi một mình, bao giờ cũng là cùng với một nỗi xé lòng. Tôi là đại úy,
mang danh hiệu sĩ quan của đội lê dương danh dự, mười một lần dược tặng
thưởng huân chương chữ thập chiến tranh, huy chương vì thành tích phục