Tới đảo, việc trước nhất của tôi là đi trồng những cây con đưa từ Miền
trù phú tới. Tôi cứ ngỡ là những chú bạn trẻ của tôi sẽ thích thú giúp đỡ tôi
đắc lực; không ngờ chúng lại cho rằng việc này chẳng lý thú và quan trọng
gì. Thế là chúng bỏ mặc tôi với cây cối, ra bờ biển tìm sò. Vợ tôi bèn thay
chúng, cùng tôi tiến hành việc đó.
Mặc dầu chúng tôi cố gắng hết sức, công việc cũng khó xong được
trước khi trời tối. Chúng tôi tại giâm xuống đất những cây chưa trồng để
sáng hôm sau lại tiếp tục. Sau đó, tôi gọi lũ trẻ lại, cả nhà trở về Nhà trong
động. Tới nơi thì trời cũng vừa tối.
Công việc trông cây hoàn thành tốt đẹp, tôi tính chuyện làm cho vợ tôi
cái khung cửi. Do tình trạng áo quần tả tơi của chúng tôi, khung cửi trở nên
quan trọng vào bậc nhất. Cũng may mà hồi nhỏ tôi hay tò mò đến các phân
xưởng dệt xem người ta dệt vải và cũng được các bạn thợ dệt chỉ vẽ cho
nhiều điều bổ ích. Bây giờ, với tất cả những hiểu biết của mình, tôi đã hoàn
thành được một cái khung cửi có thể dệt được tàm tạm, tuy chưa đẹp mà
cũng chưa đúng quy cách lắm. Sau biết bao nhiêu khó khăn mò mẫm,
những mảnh vải đầu tiên đã ra đời tuy còn thô. Thiếu bột gạo để hồ sợi, tôi
thay bằng keo da cá và tôi có thể tự hào rằng sáng kiến đó đã có nhiều công
dụng hơn hồ bột gạo cổ truyền. Hồ keo da cá giữ được độ ẩm cần thiết, sợi
đỡ đứt khi gặp hanh hao. Nhờ thế khung cửi có thể đặt ở nơi cao ráo thoáng
mát chứ không bắt buộc người thợ phải ngồi ru rú trong hầm ẩm thấp mới
dệt được.
Tuy nhiên,những công việc quanh quẩn trong nhà như thế không thỏa
mãn được tính phiêu lưu mạo hiểm của lũ trẻ. Luôn luôn chúng cứ nài xin
cho được đi săn bắn ngoài đồng nội. Tôi chưa ưng thuận nhưng hứa sẽ cho
phép sau khi khi đã làm xong một việc khác rất cần: đan rổ, rá, bồ, bịch,
thúng mủng để đựng các thứ hạt, quả và củ.
Một hôm, chúng tôi đương ngồi đan cói, Phrê-đê-rích với cặp mắt tinh
anh có thể nhìn thấy rất xa, bỗng đứng dậy và như có vẻ sợ hãi nhìn một