rôn chăng ngang thân giỏ, mỗi chữ cái có một sắc hồng khác nhau. Lòng tôi
chung xuống khi nhận ra tấm thiệp này chắc hẳn là của dì Clarice, bà dì vẫn
thường đối xử với tôi như thể tôi vẫn còn là đứa con nít lên mười. Trừ phi
Rachel đang chơi trò “bạn thân từ thuở còn thơ”. Tôi chậm rãi mở tấm
thiệp ra, lòng ngập tràn hy vọng cho tới khi nhìn thấy tờ mười đô la kẹp
trong đó - thế là đủ biết ai gửi rồi đấy - cùng chữ ký loằng ngoằng của dì
Clarice bên dưới lời chúc “Chúc cháu một ngày niềm vui đầy giỏ!”
Thế là hết. Không gì có thể cưú vãn được nữa – Rachel và Dex đã phá hỏng
ngày sinh nhật lần thứ ba mươi của tôi, cái ngày chúng tôi đã nói đến trong
suốt năm năm qua là ít. Tôi bắt đầu khóc, bao nhiêu công chăm sóc quầng
mắt mà tôi yêu cầu thêm trong những lần đi mát xa mặt thế là công cốc. Tôi
gọi điện vào di động của Marcus, tìm kiếm chút thương cảm nơi anh.
“Anh đang ở đâu vậy?” tôi hỏi.
“Cái đó thì chỉ mình anh biết, còn em phải đoán,” anh nói, tiếng xe cộ ầm ĩ
vang lên trong điện thoại. Tôi hình dung cảnh Marcus đang sải bước trên
Đại lộ 5, trong tay ôm một đống quà.
“Bọn họ không gọi. Chẳng ai gọi. Không điện thoại, không e-mail hay
thiệp chúc mừng. Chẳng gì hết.”
Anh biết thừa tôi đang ám chỉ ai rồi. “Khí phách của mấy thằng bạn trai
cũ!” Marcus nói đùa.
“Hay ho gì mà đùa!” tôi đáp. “Anh tin nổi bọn họ không chứ?”
“Darcy, chẳng phải em đã bảo bọn họ rằng em không bao giờ muốn nói
chuyện với họ nữa sao? Rằng đối với em... nguyên văn là gì ấy nhỉ... đối
với em, bọn họ ‘như đã chết rồi’ cơ mà?”
Khá khen cho anh vì nhắc lại chính xác những lời tôi đã nói. “Phải - nhưng
ít nhất bọn họ cũng phải cố tỏ ra ăn năn hối cải chứ. Hai kẻ đó thậm chí
chẳng thèm cố gắng. Hôm nay là sinh nhật lần thứ ba mươi của em cơ mà!”