Bà Hai Thế không phản đối quyết định của con gái, nhưng từ ngày ấy tinh
thần bà sụp đổ nhanh chóng, kéo theo sự suy đồi của thể chất. Bà mất trí
nhớ trầm trọng, thường nói lảm nhảm một mình và bỏ ăn uống, nằm liệt
trên giường, trên tay lúc nào cũng cầm tấm ảnh chụp gia đình Nhã. Sáu
tháng sau, bà Hai Thế qua đời sau khi bị ngã trong phòng tắm và hôn mê
mấy ngày.
Nhàn đã hoàn toàn mất hết hy vọng về gia đình Nhã, nay lại thêm cái chết
của mẹ, cô tìm nguồn an ủi nơi hai đứa con và tình yêu của Thái.
Công việc ở Sở Du Lịch tưởng là giúp Nhàn tạm quên nỗi buồn đau nhưng
lại chỉ nhắc cô cay đắng nhớ tới thân phận bị đày ải kềm kẹp của người dân
Việt Nam. Khách du lịch tới thăm Việt Nam tuy không nhiều, chỉ gồm một
ít người Nhật và người Tây Âu, nhưng trông họ bình thản yên vui, hạnh
phúc. Họ là những con người tự do, đến đây từ những miền đất tự do, họ đi
để tìm thú vui và được tiếp đón niềm nở, ân cần. Còn người dân Việt nam,
sao phải sợ hãi trốn đi trong đêm tối để phải đương đầu với bao hiểm nguy
và bị xua đuổi ở khắp nơi?
Phải chăng dân tộc này không đáng được sống như những con người, vì
hèn nhát? Nhưng, những người đã và đang ra đi - những người trẻ, những
người già, những thanh niên, những phụ nữ, những trẻ thơ...? Dù thành
công hay thất bại và bỏ thây trong lòng biển, họ cũng đã nói lên một sự
phản kháng. Và bóng đêm vẫn bao trùm trên đất nước bất hạnh này, trong
đó dường như không một ai biết tới hạnh phúc thật sự - kẻ thua cũng như
người thắng. Nhàn nghĩ đến Thái, đến hai đứa con đang tới tuổi vị thành
niên của mình với một tương lai vô vọng trước mắt. Cô lại nghĩ đến vượt
biên, và nói ý định ấy với Thái.
- Em không thể chịu đựng lâu hơn cuộc sống này và không thể để hai đứa
con của em ở đây, anh ạ.
- Rồi em làm gì?
- Anh biết rồi. Vượt biên.
- Cả gia đình cô Nhã và thằng Tony chưa đủ sao? Em không sợ à?
- Sợ chứ, nhưng chính anh đã kết tội sự hèn nhát. Chế độ này không cho
con người một lựa chọn nào khác, ngoài sự hèn nhát. Em không muốn hai