Dẫu vàng nghìn lạng dễ cười một khi.
Ông cố « trì trí » thế nhưng chỉ giữ vững được cốt cách mình, lòng ông
« vững như bàn thạch, khôn đường khá chuyển », song, nhịp đời vẫn thi
nhau :
Gót danh lợi bùn pha sắc xám
Có lẽ do tại cái triết lý ông theo chưa « nhập thế » nổi, ông không đạt
được mục đích nên chung quanh ông, ông vẫn thấy rằng :
Lò cừ nung nấu sự đời,
Bức tranh vân cẩu vẽ người tang thương.
Nào sự suy nhược của vua con nhà Lê, nào mưu mô sảo quyệt của đảng
phái Tuyên phi họ Đặng, nào tinh thần bợ đỡ của quan lại văn võ, nào lệ
thông kinh 3 quan phá bỏ nền nếp khoa cử, và nhất là sự phi đạo của lũ kiêu
binh quân phiệt, tất cả những điều phản bội chính giáo ấy đã khiến ông nhìn
vào đâu cũng thấy thê thảm rầu rĩ :
Hình mộc thạch
vàng kim ố cổ ;
Sắc cầm ngư ủ vũ ê phong ;
Hoặc : Tiêu điều nhân sự đã xong,
Sơn hà cũng huyễn côn trùng cũng hư.
Và rồi niềm thời bệnh ấy càng mênh mang bao trùm khắp cả sông núi,
cỏ cây :
Phong trần đến cả sơn khê,
Tang thương đến cả hoa kia cỏ này.
Là môn đệ trung kiên của Trình Chu, ông muốn đem tin lý vạn năng
trong « ba pho đại toàn » (Tứ thư, Ngũ kinh, Tinh lý) ra để cứu vãn tình thế,
nhưng cũng không có đất mà phát triển vì nhà Chúa nào phải chỉ để riêng
cho ông, nghe riêng ông bàn cách bình thiên hạ ? Cho nên ông phải than
rằng :
Ngán thay cái én ba nghìn,
Một cây cù mộc biết chen cành nào ?