LUẬN VỀ BIẾU TẶNG - Trang 268

chỉ là các hợp đồng ưng thuận, như fiducia [sự tin cậy, tin tưởng] mà mancipatio đôi khi bị lẫn

lộn với. Xem các tư liệu trong Girard, Manuel élémentaire de droit romain, tr. 545; xem thêm

tr. 299. Ngay cả mancipatio, mancipiumnexum, vào một thời rất xưa, được dùng như nhau.

Tuy nhiên, để qua một bên sự đồng nghĩa này, chúng xét đến tiếp theo đây sự chuyển

nhượng (mancipatio) các vật (res) thuộc vào familia và chúng tôi phát xuất từ nguyên tắc

được Ulpien (XIX, 3) lưu giữ (xem Girard, svd, tr. 303): “mancipatio... propria alienatio

rerum mancipi”.

(i)

Chúng tôi không nghiên cứu đầy đủ về luật Hy Lạp hoặc đúng hơn các tàn dư của

luật lệ cổ trước các cuộc làm luật lớn của người Ionia và người Dorian, để có thể nói phải

chăng nhiều tộc người ở Hy Lạp biết hay không biết các quy tắc biếu tặng này. Có lẽ phải xem

lại tất cả thư tịch về các vấn đề đa dạng: biếu tặng, hôn nhân, thế chấp (Xem Gernet,

“Εγγύαι”, Revue des Études grecques, 1917; xem thêm Vinogradorff, Outlines of the History

of Jurisprudence [Phác thảo lịch sử luật học], I, tr. 235), sự hiếu khách, lợi ích và hợp đồng,

và có lẽ chúng ta chỉ còn tìm lại được những đoạn thôi. Và đây là một đoạn: trong cuốn

Éthique à Nicomaque, 1123 a 3, về người công dân hào hiệp và về các tiêu xài công và tư của

ông ta, Aristote nêu ra các cuộc chiêu đãi người nước ngoài, các sứ đoàn, cho biết ông ta tiêu

xài như thế nào; Aristote viết thêm: “Các sự biếu tặng có chút gì tương tự như các sự cung

hiến” (xem thêm trên đây về người Tsimshian).

Hai nền luật pháp Ấn-Âu hiện hành cũng có những định chế cùng loại: Abania và

Ossetia. Chúng tôi tự giới hạn vào các đạo luật hay sắc lệnh hiện đại cấm hay hạn chế nơi các

tộc người này các sự phung phí thái quá trong các đám cưới, đám tang, v.v., xem chẳng hạn

Kovalevski, Coutume contemoraine et loi ancienne [Tập tục đương đại và luật xưa], tr. 187.

(i)

Ta biết rằng gần như tất cả các “công thức” của hợp đồng đều được các tư liệu của

người Do Thái ở Ai Cập vào thế kỷ V trước CN, chứng thực. Xem Cowley, Aramaic papyri of

the Fifth Century B.C, [Các tư liệu Aramaic viết trên giấy cói vào thế kỷ V trước CN],

Oxford, 1923. Ta cũng biết đến các công trình nghiên cứu của Ungnad về hợp đồng ở

Babylone (xem Année sociologique, XII, Paul Huvelin, tr. 508; Cuq, “Études sur les contrats

de l’époque de la 1st Dynastie babylonienne” [Nghiên cứu về các hợp đồng thuộc thời Triều

đại thứ nhất ở Babylone], Nouvelle Revue de l’histoire du droit [Tạp chí mới về lịch sử luật],

1910.

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.