chỉ là các hợp đồng ưng thuận, như fiducia [sự tin cậy, tin tưởng] mà mancipatio đôi khi bị lẫn
lộn với. Xem các tư liệu trong Girard, Manuel élémentaire de droit romain, tr. 545; xem thêm
tr. 299. Ngay cả mancipatio, mancipium và nexum, vào một thời rất xưa, được dùng như nhau.
Tuy nhiên, để qua một bên sự đồng nghĩa này, chúng xét đến tiếp theo đây sự chuyển
nhượng (mancipatio) các vật (res) thuộc vào familia và chúng tôi phát xuất từ nguyên tắc
được Ulpien (XIX, 3) lưu giữ (xem Girard, svd, tr. 303): “mancipatio... propria alienatio
rerum mancipi”.
Chúng tôi không nghiên cứu đầy đủ về luật Hy Lạp hoặc đúng hơn các tàn dư của
luật lệ cổ trước các cuộc làm luật lớn của người Ionia và người Dorian, để có thể nói phải
chăng nhiều tộc người ở Hy Lạp biết hay không biết các quy tắc biếu tặng này. Có lẽ phải xem
lại tất cả thư tịch về các vấn đề đa dạng: biếu tặng, hôn nhân, thế chấp (Xem Gernet,
“Εγγύαι”, Revue des Études grecques, 1917; xem thêm Vinogradorff, Outlines of the History
of Jurisprudence [Phác thảo lịch sử luật học], I, tr. 235), sự hiếu khách, lợi ích và hợp đồng,
và có lẽ chúng ta chỉ còn tìm lại được những đoạn thôi. Và đây là một đoạn: trong cuốn
Éthique à Nicomaque, 1123 a 3, về người công dân hào hiệp và về các tiêu xài công và tư của
ông ta, Aristote nêu ra các cuộc chiêu đãi người nước ngoài, các sứ đoàn, cho biết ông ta tiêu
xài như thế nào; Aristote viết thêm: “Các sự biếu tặng có chút gì tương tự như các sự cung
hiến” (xem thêm trên đây về người Tsimshian).
Hai nền luật pháp Ấn-Âu hiện hành cũng có những định chế cùng loại: Abania và
Ossetia. Chúng tôi tự giới hạn vào các đạo luật hay sắc lệnh hiện đại cấm hay hạn chế nơi các
tộc người này các sự phung phí thái quá trong các đám cưới, đám tang, v.v., xem chẳng hạn
Kovalevski, Coutume contemoraine et loi ancienne [Tập tục đương đại và luật xưa], tr. 187.
Ta biết rằng gần như tất cả các “công thức” của hợp đồng đều được các tư liệu của
người Do Thái ở Ai Cập vào thế kỷ V trước CN, chứng thực. Xem Cowley, Aramaic papyri of
the Fifth Century B.C, [Các tư liệu Aramaic viết trên giấy cói vào thế kỷ V trước CN],
Oxford, 1923. Ta cũng biết đến các công trình nghiên cứu của Ungnad về hợp đồng ở
Babylone (xem Année sociologique, XII, Paul Huvelin, tr. 508; Cuq, “Études sur les contrats
de l’époque de la 1st Dynastie babylonienne” [Nghiên cứu về các hợp đồng thuộc thời Triều
đại thứ nhất ở Babylone], Nouvelle Revue de l’histoire du droit [Tạp chí mới về lịch sử luật],
1910.