Nếu Pháp thân tịch diệt, Pháp thân thì giống như cây cối đá gạch, có cái nào
thọ lạc? Lại pháp tánh là bổn thể của sanh diệt; ngũ uẩn – sắc, thọ, tưởng,
hành, thức – là dụng của sanh diệt. Trong một cái bổn thể của pháp sanh ra
năm loại dụng, nếu sanh diệt là thường, nếu từ pháp thể sanh ra năm loại
dụng này, đến lúc diệt, thì nhiếp năm dụng này mà quy hoàn pháp thể. Nếu
nó lại sanh, đạo lý này chính là tất cả muôn loài hữu tình, không đoạn
không diệt tức là thường. Nếu không cho phép nó sanh ra lần nữa, thì vĩnh
viễn quy về tịch diệt, giống như những vật vô tình cây cỏ đá gạch. Nếu như
vậy, thì tất cả chư pháp đều bị Niết Bàn chế phục cấm chỉ, biến thành đoạn
diệt, ngay thác sanh cũng không được tự do, thì có gì an lạc?
*
Sư nói: Ông là con nhà Thích (Phật), sao tập theo chỗ tà kiến (đoạn
kiến và thường kiến) của ngoại đạo mà bàn qua pháp tối thượng thừa?
Cứ theo chỗ ông nói, thì ngoài cái sắc thân riêng có cái Pháp thân, lìa
chỗ sanh diệt cầu nơi tịch diệt, lại nghĩ cảnh Niết Bàn là thường vui, nói
rằng có cái thân thọ dụng. Ấy là cố chấp — tiếc thương chỗ sống chết,
quá nhiễm sự vui sướng ở thế gian.
Ông nay phải biết Phật thấy cả thảy các người mê muội, nhận năm uẩn
hòa hiệp làm các tướng của thân mình, phân biệt cả thảy các pháp là
các tướng của thế gian ở ngoài, ưa sống ghét chết, niệm niệm đổi dời,
chẳng biết sự mộng huyễn giả dối, luống chịu sanh tử luân hồi, lấy cảnh
thường vui Niết Bàn đổi lại làm trạng tướng khổ não và trọn ngày chỉ
cầu ở ngoài.
Vì đó Ngài mới động lòng thương xót mà chỉ cái thiệt vui của Niết Bàn
(Niết Bàn chơn lạc), trong một sát na không có tướng sanh, trong một
sát na không có tướng diệt, lại cũng không có sự sanh diệt gì mà nên tắt
dứt. Ấy là cái tâm vắng lặng (tịch diệt) hiện ra rõ ràng. Đương lúc cái
tâm vắng lặng hiện ra rõ ràng, cũng không nghĩ tới chỗ hiện ra đó. Ấy
gọi là thường vui (thường lạc).