Nếu tánh mình tà, thì khởi ra mười tám điều tà. Còn tánh mình chánh
thì khởi ra mười tám điều chánh. Tánh mình ứng dụng theo điều dữ,
tức là chỗ ứng dụng của chúng sanh. Còn tánh mình ứng dụng theo
điều lành, tức là chỗ ứng dụng của Phật. Vậy chỗ khởi dụng do đâu mà
có? Do nơi tánh mình vậy.
Những pháp đối là:
–Năm pháp đối của loài vô tình ở ngoại cảnh: Trời đối với đất, mặt
nhật đối với mặt nguyệt, sáng đối với tối, âm đối với dương, nước đối
với lửa. Ấy là năm pháp đối.
Giảng:
Tự tánh nếu tà, thì mười tám giới biến thành tà, tự tánh nếu chánh thì mười
tám giới chánh. Nếu dụng không đúng thì đó là chúng sanh dụng. Nếu dụng
thiện, viên mãn đó chính là Phật dụng. Dụng từ đâu đến? Đều từ trong tự
tánh sanh ra. Đây là vì tự tánh có pháp đối đãi, mà ngoại cảnh vốn là vô
tình.
Cái gì gọi là ngũ đối? Nếu người hỏi trời thì đem đất đối. Nhật và nguyệt là
một đối, minh và ám là một đối, âm và dương là một đối, nước và lửa là
một đối, đây là năm đối.
*
Diễn bày về pháp tướng thì có mười hai đối: Tiếng nói đối với pháp, có
đối với không, có sắc chất đối không sắc chất, có tướng đối với không
tướng, hữu lậu đối với vô lậu, sắc đối với không, động đối với tịnh,
trong đối với đục, phàm đối với thánh, tăng đối với tục, già đối với trẻ,
lớn đối với nhỏ. Ấy là mười hai pháp đối.
Giảng: