IV. NHỮNG PHƯƠNG-PHÁP LÀM GIÀU
THÊM TIẾNG
Như trên kia đã nói, đến cuối thế-kỷ thứ 19, tiếng Nam vẫn không được
công-nhận là tiếng chính-thức trong việc học, việc quan và cũng không được
phái thượng-lưu trí-thức săn-sóc đến. Nó chỉ nhờ sự nâng-niu tô-điểm của
hạng bình-dân và một số ít tao-nhân mặc-khách, nên vẫn ngấm-ngầm phát-
đạt và dần-dần trở nên một thứ tiếng có văn-chương. Trừ ra một vài kiệt tác,
thì tiếng nôm vẫn chỉ là một thứ tiếng nhật dụng, cần ích cho đời thực-tế, và
dùng để diễn-đạt những cảm-giác thông thường mà thôi cũng tựa như tiếng
Pháp về thế-kỷ 13 hay 14 vậy.
Ở trong xã-hội thượng-lưu, quí-phái, cách ăn-nói vẫn bóng-bẩy văn-hoa
hơn chỗ quê mùa mộc-mạc, nhưng cũng chẳng qua là thứ tiếng thích-dụng
trong sự vãng-lai thù-tạc chứ chưa sẵn-sàng để đón tiếp những tư-tưởng tế-
nhị cao-siêu.
Tình trạng tiếng ta là thế, khi chúng ta bắt đầu tiếp xúc với văn-minh
Tây-phương. Trước ảnh-hưởng mãnh-liệt của văn-minh ấy, kẻ trí-thức trong
nước ta mới lưu-tâm chú-ý đến sự dùng quốc-âm làm lợi-khí để truyền-bá
học-thức và tư-tưởng mới, ngõ hầu dìu-dắt dân-tộc ta trên đường tiến-bộ.
Song những kẻ muốn ra đảm đương công-việc ấy còn phải hô-hào cổ-động
cho trong nước có một phong-trào quốc-văn để trả lời những kẻ bài-bác nó
cho là quá nghèo nàn, hay lãnh đạm đối với nó, cho là chưa đủ tư-cách dùng
để viết văn.
Thật ra những kẻ nhiệt-thành bênh-vực cho quốc âm, lắm lúc cũng phải
bực mình vì nỗi thiếu tiếng khi muốn dùng để diễn-đạt tư-tưởng và học-thức
mới. Tiếng ta thật vẫn còn nghèo và công-việc cần kíp nhất là phải làm cho
tiếng giàu thêm. Ấy là nguyên-lý mà mọi người đều công-nhận ; nhưng phải
làm sao để đi tới sự thực-hành ?
Trước hết người ta tìm đến cái kho tiếng Hán-Việt mà hơn ngàn năm
Hán-học đã dồn chứa cho ta. Chữ Hán mà người ta tưởng đã hết thời, nay lại