hoặc cho quốc văn không thể lìa bỏ lề-lối khuôn-mẫu của Hán-văn, hoặc trái
lại, muốn cho quốc-văn bắt-chước hệt theo mẹo-mực của văn xuôi Pháp.
Nhưng chúng ta phải công-nhận có một số nhà văn thức-thời đã có học-vấn
rộng rãi gồm cả tân và cựu, lại khéo đem ứng-dụng vào quốc-văn những
đặc-tính hay trong văn cổ-điển Tàu và trong văn xuôi Pháp. Cho nên lối văn
của họ đã vừa trang-nghiêm nhã-nhặn lại vừa trong-sáng dễ-dàng.
Tương-lai văn quốc-ngữ chắc là ở trong sự điều-hòa khéo-léo ấy, thêm
vào cái tinh-thần đặc-biệt của tiếng ta. Ấy là thời-kỳ thứ ba trong lịch-trình
tiến-hóa của văn xuôi Việt-Nam vậy.
Một ngôn-ngữ có một tinh-thần riêng, tiêu-biểu tâm-hồn của dân tộc và
thích-hợp với cách vận-dụng tư-tưởng của người ta. Chúng ta có thể mượn ở
ngôn-ngữ của một dân-tộc khác những cái gì làm cho tiếng ta thêm giàu,
thêm hay, nhưng bao giờ cũng phải thuận theo tinh thần tiếng ta trước đã.
Muốn giải-thích một ngôn-ngữ không phải là dễ, người ta có thể lĩnh-hội,
nhưng nói ra rất khó. Tinh-thần tiếng ta có lẽ là ở những đặc-tính trong sáng,
nhẹ-nhàng và ở sự hòa-hợp thanh-âm, tức là âm-nhạc tự nhiên trong tiếng
nói. Không gì làm cho ta khoan-khoái bằng khi được đọc một câu văn, hay
nghe một lời nói có tính-chất hoàn-toàn Việt-Nam. Trí ta hiểu được ngay,
tâm ta cảm đến ngay. Những thí-nghiệm gần đây của vài văn-sĩ hiếu-kỳ
muốn xáo-trộn cả tinh-thần của tiếng ta, bắt phải theo những cách diễn-đạt
tư-tưởng trái hẳn với tinh-thần ấy, chỉ là những cuộc thí-nghiệm điên-cuồng
không thể đứng vững được. Một lối văn như thế nếu có nhiều người phụ-họa
chăng nữa, cũng không thể phổ-thông cho cả dân-tộc, chẳng qua là một thứ
ẩn-ngữ riêng cho một hạng người hiểu biết lẫn nhau mà thôi.