cuộc đấu tranh chung. Khẩu hiệu của báo chí lúc đó là chống thực dân xâm
lược, và mọi người cầm bút đều tỏ ra tích cực trong sứ mạng sát cánh cùng
những người kháng chiến để đánh đuổi quân thù. Trong giai đoạn này, báo
chí cũng ở trong thế đoàn kết với nhau để tồn tại. Trong số những tờ báo nổi
bật, chúng ta phải kể đến tờ tuần báo Việt Tiến của Lê Thọ Xuân, tờ Thế
Giới của Dương Tử Giang, cũng là một tuần báo nặng về văn chương và văn
hóa mới, có sự góp mặt của những cây viết nhà nghề như Bình Nguyên Lộc
và Hồ Hữu Tường.
Tới khoảng 1959, mặc dù cuộc chiến vẫn kéo dài, và tinh thần kháng
chiến vẫn còn trong đầu óc người cầm bút, báo chí lúc đó lại rẽ qua một
chiều hướng khác vì nhiều lý do :
- Thứ Nhất, vì thiếu tự do ngôn luận, người cầm bút không viết được
hết những gì mình muốn viết.
- Thứ hai, cuộc kháng chiến kéo dài đã mấy năm, tính chất thiêng liêng
của nó đã giảm sút và những huyền thoại về nó đã phai mờ dần.
- Cuối cùng, lý do làm cho báo chí đổi hướng là trình độ kỹ thuật tân
tiến giúp cho báo chí đi vào kỷ nguyên « tự động hóa » để thỏa mãn nhu cầu
mỗi ngày một gia tăng mạnh.
Tất cả những lý do trên đưa báo chí vào giai đoạn thương mại hóa,
phục vụ nhu cầu của độc giả. Ngoài ra, lý do chính trị cũng góp phần cho sự
chuyển hướng này. Tại miền Bắc, Việt Minh sau mấy năm giành chính
quyền, báo chí đã nhanh lẹ tách rời ngay và hướng về chủ nghĩa quốc gia.
Những tờ báo nào không đi theo đường lối đó thì chỉ còn cách tự coi mình
như một cơ sở kinh doanh sản xuất món hàng nào mà độc giả ưa thích.
Chính khía cạnh này đã khiến cho báo chí đạt được nhiều điều hay, mà cũng
mắc phải nhiều điều dở, vì lẽ nhu cầu của độc giả không phải cái nào cũng
hoàn toàn tốt đẹp.
Tiêu biểu cho báo chí trong thời gian này tại miền Bắc là tờ Thời Sự
của Nghiêm Xuân Thiện, xuất hiện vào năm 1947. Còn ở miền Nam, tờ
Thần Chung của Nam Đình là một trường hợp đáng chú ý. Tờ này mở