vưởng như trứng ung hết góc nọ đến góc kia. Không tài nào cải tạo được.
Paulie cứ giở trò suốt.
Cũng giống như con người, giữa chó với nhau vẫn có sự khác biệt. Có
những con chó đặc biệt khác những con còn lại. Tan làm, tôi thường nghĩ
nên về nhà khẩn trương để có thể dẫn Paulie đi dạo, nhưng vể tới nơi tôi lại
rúc ngay vào buồng tắm mà gội đầu xối nước hòng xả hết mùi nhà bếp trên
tóc trên tai. Tắm rửa xong xuôi thì chỉ còn mỗi một ham muốn là ngủ. Bất
kể ăn nhiều đến đâu, thể xác tôi vẫn hoài mệt mỏi.
Tao nghĩ là xuân sắp sang, tôi thì thầm trong lúc nằm trên xô pha, tay lơ
đãng chải lông cổ Paulie. Con chó đột nhiên lắc mình, ngẩng đầu lên, và tôi
lập tức ngửi thấy mùi gì đó. Tôi hít hít, lỗ mũi nở rộng. Mày làm gì đấy,
Paulie? Paulie lắc đầu, lông trên mình dựng đứng. Tôi rút bàn tay đang luồn
trong bờm lông Paulie, đưa lại gần mũi. Một mùi thân thuộc mà tôi biết quá
rõ. Mùi ấy từ từ khuếch tán ra không khí. Tôi thọc lại tay vào lông Paulie và
nó ưng thuận, cuộn mình nằm xuống như cũ.
Mùi hôi của rêu mốc mọc trên bề mặt phô mai xanh; mùi oi của tảng thịt
cừu treo lâu ngày trên xà nhà; mùi chua, cũ, nồng, thoảng ra từ vùng dưới
cánh tay của một chiếc sơ mi đẫm mồ hôi… Và giữa tất cả những mùi đó
nổi lên một mùi mằn mặn dễ chịu, tươi mới như cá trích mùa đông, một mùi
hương bản năng, đầy sức sống. Mùi của một người đàn ông. Mùi của anh.
Chó ghi nhớ con người qua những dấu chân họ để lại trên mặt đất, qua
mùi của bàn tay vuốt trên lưng chúng. Đây… mùi này thì cả hai chúng tôi
đều thích.
Paulie lắc đầu. Tôi nhắm mắt. Có khi mùi của anh cũng còn phảng phất
đâu đó trên xô pha này. Một lượng rất nhỏ những phân tử không đáng kể.
Bây giờ mùi ấy đang từ từ tản mát khỏi căn nhà và khỏi lông Paulie. Nhưng
mùi không phải là thứ duy nhất tôi nhớ ở anh. Mày cũng thế, phải không
Paulie?
Vào các ngày thứ Ba và Năm – ngày có tiết dạy nấu ăn – tôi sẽ ra chợ
Gyeongdong hoặc đến mấy nhà kho lớn như Costco để mua nguyên liệu.